Thực hiện chính sách, pháp luật đối với người cao tuổi

(Quanlynhanuoc.vn) – Xu hướng già hóa và thực trạng dân số cao tuổi ở Việt Nam đang đặt ra yêu cầu cần nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, hoạch định chính sách cũng như của toàn bộ cộng đồng về những thách thức của vấn đề già hóa dân số và đời sống của người cao tuổi. Bên cạnh đó, những thách thức mà các quốc gia có dân số già và rất già như Nhật Bản, I-ta-li-a, các nước Tây Âu là những kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam, do đó, cần phải chuẩn bị ngay các chính sách, chương trình thích ứng của quốc gia có dân số già nhưng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế còn thấp ở nước ta.

 

Ảnh: baodansinh.vn
Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với người cao tuổi

Trong quan niệm của cộng đồng quốc tế, người cao tuổi (NCT) còn gọi là người già, người cao niên là một nhóm xã hội trong nhóm dễ bị tổn thương bởi những đặc điểm về tâm, sinh lý và nhất là về những quan niệm không đúng của xã hội đối với họ. Nói cách khác, họ thường bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Do đó, NCT thường bị mất đi các quyền và lợi ích chính đáng của mình và mất đi cả cơ hội để tiếp tục cống hiến cho xã hội.

Sở dĩ ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, NCT thường được Nhà nước và xã hội đề cao là vì truyền thống văn hoá được hình thành từ đời sống cộng đồng ở khu vực sinh thái nhiệt đới, nhiều thiên tai và do ảnh hưởng lâu dài của Nho giáo. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến ngày nay vai trò của “già làng” “trưởng bản”, thường là những NCT vẫn giữ được vị trí quan trọng trong đời sống, xã hội ở cơ sở. Trong quan niệm của Nho giáo, một xã hội hài hoà cần phải có các quy phạm đạo đức, để điều chỉnh các quan hệ xã hội và gia đình đó là “Đạo”, “Tam cương”, “Ngũ thường”. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, con cái có nghĩa vụ hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ khi về già.

Trong sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò NCT luôn luôn được đánh giá cao và phát huy. Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập “Phụ lão cứu quốc hội”.

Hiến pháp, Luật NCT và các văn bản pháp luật liên quan đến NCT là cơ sở pháp lý quan trọng, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chăm sóc, phát huy vai trò NCT; là căn cứ để các cấp chính quyền, các ngành, các cấp Hội NCT đẩy mạnh công tác chăm sóc NCT trong giai đoạn hiện nay.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa…”. Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để NCT hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, lao động học tập của NCT trong xã hội và gia đình “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết thương yêu nhau”; giúp đỡ NCT cô đơn không nơi nương tựa. Nghị quyết Đại hội V Hội NCT Việt Nam (năm 2016) chỉ rõ: “Tăng cường xã hội hóa các hoạt động của Hội, xây dựng nguồn lực cả cơ sở vật chất và tài chính để chăm sóc phát huy vai trò NCT”.

Các chủ trương của Đảng đối với NCT được thể chế hoá trong các bản Hiến pháp. Tại khoản 3 Điều 37, Hiến pháp 2013, quy định: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; khoản 2 Điều 59 ghi nhận: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”.

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cao hơn để ghi nhận vai trò cũng như bảo đảm tốt hơn việc chăm sóc, bảo vệ các quyền hợp pháp của NCT, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật NCT và được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2009. Từ cơ sở pháp lý cao nhất này, chính sách đối với NCT đã được đề cập và cụ thể hóa trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tạo ra một khuôn khổ chính sách khá toàn diện đối với NCT ở Việt Nam. Đó là, Bộ luật Lao động năm 2012 có 1 mục quy định riêng đối với lao động là NCT; Luật Người cao tuổi năm 2009 đã dành toàn bộ Chương II quy định về phụng dưỡng, chăm sóc NCT. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tại khoản 2 Điều 71 quy định: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Luật Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, tại khoản 1 Điều 41 quy định: “Người cao tuổi… được ưu tiên khám, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khỏe của mình”. Bộ luật Hình sự năm 2015, tại khoản 2 Điều 40 quy định: không áp dụng hình phạt tử hình đối với người tử tù đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

Để tổ chức thực thi luật, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về cơ chế, chính sách liên quan đến NCT.

Thứ nhất, về công tác và bảo trợ xã hội và chăm sóc sức khỏe đối với NCT bao gồm một số nghị định và thông tư, cụ thể: Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật; Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội; Thông tư số 17/2011/TT-BLĐTBXH ngày 19/5/2011 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định hồ sơ, thủ tục trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ chi phí mai táng và tiếp nhận NCT vào cơ sở bảo trợ xã hội; Thông tư số 26/2012/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2012 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn một số điều của Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Người khuyết tật; Thông tư số 21/2011/TT-BTC ngày 18/02/2011 của Bộ Tài chính quy định quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NCT tại nơi cư trú, chúc thọ, mừng thọ và biểu dương, khen thưởng NCT; Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe NCT; Nghị định số 13/2010/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.

Thứ hai, về lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, cụ thể. Thông tư số 127/2011/TT-BTC ngày 09/9/2011 của Bộ Tài chính quy định mức thu phí thăm quan di tích văn hóa, lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng cảnh đối với NCT; Thông tư số 06/2012/TT-BVHTTDL ngày 14/5/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về hỗ trợ NCT tham gia hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch và tổ chức mừng thọ NCT.

Thứ ba, về lĩnh giao thông.Thông tư số 71/2011/TT-BCTVT ngày 30/12/2011 của Bộ Giao thông vận tải quy định về hỗ trợ NCT khi tham gia giao thông công cộng; Công văn số 3873/BGTVT-CP ngày 01/7/2011 của Bộ Giao thông vận tải về việc triển khai thực hiện quy định giảm giá vé, giá dịch vụ cho NCT khi tham gia giao thông bằng tàu thủy chở khách, tàu hỏa chở khách, máy bay chở khách.

Thứ tư, về quỹ chăm sóc và phát huy vai trò NCTNghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện; Thông tư số 02/2013/TT-BNV ngày 10/4/2013 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động quỹ xã hội từ thiện.

Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ phát động Chương trình hành động, Tháng hành động vì NCT tại Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về NCT Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020. Tháng hành động vì NCT tại Quyết định số 544/QĐ-TTg ngày 25/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định hàng năm lấy tháng 10 là tháng hành động vì NCT.

Như vậy, các văn kiện Đại hội Đảng, các văn kiện Đại hội Hội NCT Việt Nam, các quy định pháp luật hiện hành đều khẳng định, NCT là nền tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội, chăm sóc và phát huy tốt vai trò NCT là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, đạo đức người Việt Nam, góp phần vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực trạng người cao tuổi và thực tiễn triển khai chính sách, pháp luật đối với người cao tuổi ở Việt Nam

Già hoá dân số đặt ra nhiều thách thức và cơ hội cho phát triển kinh tế – xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong số hơn 8 triệu NCT hiện nay, có 6.900 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 7.000 người là lão thành cách mạng, 30.000 người là cán bộ đã từng bị địch bắt, giam cầm, tra tấn, 500.000 người là thương bệnh binh 100.000 là người thanh niên xung phong, 5.000 người có công với cách mạng1. Có thể nói, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của Nhân dân ta được vững bền như ngày nay có phần đóng góp vô giá của các thế hệ NCT.

Trên phương diện gia đình và xã hội, vai trò của NCT đặc biệt quan trọng. NCT là hạt nhân, là lực hấp dẫn, giữ vững cấu trúc gia đình, ổn định và phát triển xã hội. Đóng góp về lao động của NCT cho gia đình và xã hội là vô cùng to lớn, nhất là của các cụ bà, nhưng phần lớn lại là “những việc không tên”, không được đánh giá. Trong mô hình gia đình truyền thống Việt Nam, đó là việc trông cháu, nội trợ. Đây không chỉ là một hình thức lao động nặng nhọc mà còn là một loại hình lao động phức tạp đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm. Những đóng góp này chưa được xã hội chính thức ghi nhận, đánh giá đúng mức.

Hiện nay, NCT cũng thường giữ vai trò trọng trách trong các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở như: tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận. NCT còn là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động xã hội như phong trào xây dựng khu dân cư văn hoá, tổ chức hoà giải, tổ chức khuyến học, khuyến tài… của địa phương và dòng họ.

Cả nước có trên 1,24 triệu NCT đảm nhận các chức vụ lãnh đạo chi bộ, tổ trưởng dân phố, trưởng thôn, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở, Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư, tham gia Hội đồng nhân dân các cấp, công tác hòa giải, khuyến học; hàng triệu NCT vẫn tham gia làm kinh tế giúp đỡ con cháu. Bên cạnh đó, 63/63 tỉnh, thành phố triển khai thành lập quỹ chăm sóc và phát huy vai trò NCT ở cơ sở 9.951 xã, phường; thị trấn có quỹ toàn dân chăm sóc NCT và quỹ chăm sóc và phát huy vai trò NCT. Có 60/63 tỉnh, thành phố đã triển khai, xây dựng được 2.985 Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau, thu hút trên 160.000 thành viên tham gia2. Ngoài ra, cán bộ Hội NCT các cấp đã có nhiều sáng kiến tổ chức các hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò NCT; các phong trào thi đua khơi dậy tiềm năng đa dạng của NCT trên các lĩnh vực, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.

Tổ chức Hội NCT phát triển cả về số lượng và chất lượng, đến nay, 100% xã, phường, thị trấn trong cả nước đã thành lập hội cơ sở. Bên cạnh đó, công tác chăm sóc NCT được các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn xã hội quan tâm; chế độ, chính sách đối với NCT được bảo đảm như chế độ hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội; trợ cấp xã hội hằng tháng; đặc biệt là chính sách người có công, chế độ hỗ trợ cho NCT trên 80 tuổi.

Theo báo cáo của Văn phòng Chủ tịch nước, trong 5 năm (từ năm 2016 đến tháng 10/2020), có 39.436 cụ tròn 100 tuổi được Chủ tịch nước tặng quà và gửi thiệp mừng thọ. Theo báo cáo của Bộ Y tế và các cấp Hội, bằng ngân sách nhà nước và vận động xã hội, khoảng 95% NCT đã có thẻ bảo hiểm y tế; hơn 1,57 triệu NCT được lập hồ sơ chăm sóc sức khỏe; cả nước có 106 bệnh viện với hơn 10.000 giường điều trị nội trú ưu tiên cho NCT3. Chương trình “Mắt sáng cho NCT” đã khám, tư vấn, chữa và điều trị các bệnh về mắt cho hàng triệu NCT trong cả nước, đã tạo được dấu ấn và lan tỏa trong xã hội. Công tác vận động, tập hợp, phát huy vai trò của NCT tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh Tổ quốc thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều NCT là cán bộ khoa học, nhà giáo, thầy thuốc sau khi nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, khám, chữa bệnh cho nhân dân. Các già làng, trưởng bản, người có uy tín, các chức sắc, chức việc tích cực phát huy vai trò là những nòng cốt tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và là trung tâm đoàn kết ở các bản, làng, trong các tôn giáo. Các doanh nhân cao tuổi vẫn đam mê sản xuất – kinh doanh, làm giàu cho xã hội và gia đình.

Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 72, cao hơn tuổi thọ trung bình thế giới là 6 tuổi. Điều đáng mừng là chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1999 đến nay tuổi thọ trung bình đã nâng lên tới 3,4 tuổi4. Điều này thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta, nhất là do hiệu quả các chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Tuổi thọ trung bình được nâng cao tất yếu số NCT cũng được tăng lên, điều này đã và sẽ đặt ra nhiều thách thức đối với Nhà nước và xã hội.

Những thách thức, hạn chế đó là, thực hiện chính sách pháp luật về NCT còn nhiều hạn chế, công tác chăm sóc, trợ giúp NCT vẫn còn nhiều khó khăn, một số văn bản ban hành còn chậm, gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình thực hiện chính sách. Một số chính sách, quy định chưa phù hợp, chế độ thấp. Quy định về miễn giảm phí giao thông, cơ sở văn hóa, vui chơi giải trí chưa mang tính thực thi cao do thiếu chế tài hoặc các biện pháp khuyến khích, cơ chế kiểm tra. Quy định về khám, chữa bệnh ban đầu cho NCT ở tuyến cơ sở theo Thông tư số 35/2011/TT-BYT của Bộ Y tế còn chậm và gặp nhiều khó khăn. Các quy định về tổ chức thực hiện chăm sóc sức khỏe cho NCT phụ thuộc nhiều vào nguồn kinh phí địa phương nên còn hạn chế, dẫn tới khó khăn trong triển khai. Bên cạnh đó, các hướng dẫn, quy trình, biểu mẫu cho thực hiện chăm sóc sức khỏe NCT ở cấp cơ sở chưa được xây dựng đồng bộ dẫn tới các địa phương lúng túng trong thực hiện. Tỷ lệ NCT đến khám, chữa bệnh, được lập hồ sơ quản lý sức khỏe định kỳ tại y tế tuyến cơ sở còn rất thấp. Nhiều bệnh viện tuyến huyện chưa tổ chức được khoa lão khoa. Trạm y tế xã/phường là nơi khám, chữa bệnh ban đầu cho NCT, nhưng tỷ lệ NCT có thẻ BHYT đăng ký khám chữa bệnh ở đây còn thấp.

NCT gặp nhiều khó khăn để tiếp cận các dịch vụ y tế khi ốm đau bệnh tật, đặc biệt là NCT nghèo, ở vùng sâu vùng xa, giao thông đi lại rất khó khăn, các cơ sở y tế thường thiếu thốn về thiết bị và đội ngũ y, bác sỹ… Việc chăm sóc đời sống NCT về vật chất, tinh thần chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, nhất là ở các xã/phường còn khó khăn, phải dựa chủ yếu vào nguồn ngân sách hỗ trợ từ cấp trên. Công tác chúc thọ, mừng thọ NCT tại một số địa phương còn chậm, thiếu kinh phí, do nguồn ngân sách để mừng thọ các cụ độ tuổi 70, 75, 80, 85… trên 100 tuổi do ngân sách xã/phường bảo đảm.

Công tác phối hợp, kiểm tra giám sát ở địa phương còn hạn chế, chưa được thường xuyên, liên tục; các chỉ tiêu, tiêu chí kiểm tra, giám sát chưa thống nhất, đồng bộ làm cơ sở cho việc đánh giá mục tiêu của luật và Chương trình hành động Quốc gia về NCT. Bên cạnh đó, các nguồn lực bao gồm cả nhân lực và tài chính còn thiếu và yếu cũng là những hạn chế trong công tác thực hiện và kiểm tra, giám sát.

Cuộc “khủng hoảng” về hôn nhân – gia đình ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển, biểu hiện ở tình trạng ly hôn, “gia đình mở’ (chung sống như vợ chồng nhưng không kết hôn), kết hôn, sinh con muộn đang gia tăng nhanh chóng. Con cái trưởng thành thường không muốn sống chung với ông bà, cha mẹ, thậm chí thoái thác nghĩa vụ phụng dưỡng đối với người sinh thành ra mình. Nhiều NCT phải nương nhờ, trông cậy vào Nhà nước, sống trong các nhà dưỡng lão của Chính phủ hoặc các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức nhân đạo, từ thiện trong khi họ vẫn còn con cháu. Tình trạng này cũng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam.

Có thể nói, NCT và vấn đề NCT đang đặt ra những thách thức lớn về kinh tế – xã hội, thậm chí là một vấn đề chính trị và văn hoá toàn cầu. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình hình đó và phải đối diện với vấn đề NCT trong một thời gian không xa.

Ảnh: https://hcmcpv.org.vn
Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách, pháp luật đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay

Mô hình giải quyết vấn đề NCT ở các quốc gia rất khác nhau, song tựu chung có hai hướng cơ bản:

Một là, xã hội hoá việc chăm sóc NCT nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước như: buộc các doanh nghiệp phải nâng cao mức đóng góp bảo hiểm cho người lao động, cho phép các tổ chức phi Chính phủ đảm nhận một phần công việc chăm sóc NCT như xây dựng nhà dưỡng lão, NCT (có bảo hiểm), phải trả thêm một phần viện phí cho một số dịch vụ y tế (như ở CHLB Đức …).

Hai là, Nhà nước hoá việc chăm sóc NCT. Biện pháp cơ bản là Nhà nước tập trung các nguồn lực và trực tiếp nuôi dưỡng NCT (điển hình là Đan Mạch, Phần Lan). Tuy nhiên, cả hai mô hình trên đều chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của NCT đó là về tình cảm gia đình. Đặc điểm chung của NCT trong các nền văn hoá không kể phương Đông hay phương Tây đều mong muốn được chung sống với con, nhất là với cháu. Trên một phương diện khác, xét về “quyền trẻ em”, việc không đáp ứng nhu cầu được sống trong môi trường gia đình của NCT cũng có nghĩa là vi phạm nguyên tắc “lợi ích tốt nhất” cho trẻ em, bởi vì trẻ em có quyền được sống với bố mẹ và luôn mong muốn được sống bên cạnh ông bà.

Chính vì vậy, cần phải nâng các quy phạm đạo đức, truyền thống của dân tộc đối với NCT thành quy phạm pháp luật nhằm quy định rõ quyền và nghĩa vụ của NCT, trách nhiệm gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc NCT; đồng thời phát huy hơn nữa vai trò của cá nhân và tổ chức Hội NCT. Từ xưa, ông cha ta đã nhận thấy tầm quan trọng của cha mẹ, ông bà, của NCT đối với gia đình và trật tự xã hội. Ngay từ thế kỷ XV, bộ “Quốc triều hình luật” thời Lê sơ (1470 -1497) đã có nhiều quy định tội phạm nhằm bảo vệ quan hệ bố mẹ – con cái” như: tội bất hiếu (Điều 475), tội đại bất kính (Điều 430). Nghĩa vụ “Vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (Điều 2), nghĩa vụ chịu tội thay cho ông bà, cha mẹ (Điều 38), nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà, cha mẹ (Điều 511), nghĩa vụ che dấu tội cho ông bà, cha mẹ, ngoại trừ tội mưu phản, đại nghịch” (Điều 2). Khác với các luật trực tiếp liên quan đến quan hệ giữa các thành viên gia đình như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bình đẳng giới; Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình… là những đạo luật dựa trên nguyên tắc bình đẳng, Luật NCT không chỉ dựa trên các nguyên tắc pháp luật nói chung mà đặc biệt dựa trên các quy phạm đạo đức, truyền thống và văn hoá dân tộc.

Giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội nhằm bảo đảm và cải thiện thu nhập của NCT có được từ lao động và hưu trí. Thực trạng “già trước khi giàu” là một thách thức rõ rệt đối với việc đáp ứng nguồn lực giải quyết một dân số già hóa. Trong điều kiện đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với các mục tiêu xã hội phải được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu. Để làm được điều này cần tận dụng tốt cơ hội “dân số vàng”, ngay từ bây giờ sẽ giúp Việt Nam có được một dân số già có thu nhập cao và sức khỏe tốt trong tương lai.

Nguồn thu nhập ổn định nhất của NCT chính là tiền lương hưu được hưởng từ những gì mà họ đã đóng góp trong suốt thời gian làm việc. Do đó, cần phải cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ trình nhất định nhằm bảo đảm sự công bằng, ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình hình phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Ngoài việc bảo đảm mối quan hệ đóng – hưởng sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống hưu trí sẽ cải thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng kể, đặc biệt việc đầu tư quỹ hưu trí được chú trọng và có hiệu quả hơn. Gắn liền với chính sách này, cần thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của đối tượng; thúc đẩy NCT tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, góp phần nâng cao đời sống và duy trì hoạt động của NCT. Với các ngành mà đào tạo thông qua thực hành là chủ yếu thì việc NCT truyền đạt kinh nghiệm, kỹ năng cho thế hệ trẻ sẽ tiết kiệm được một nguồn lực lớn cho đào tạo; trợ cấp xã hội cho nhóm NCT dễ tổn thương theo hướng mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi NCT – một hệ thống nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu.

Cần đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với NCT và truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn tật. Chú trọng việc quản lý và kiểm soát các bệnh mãn tính (đặc biệt như tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiểu đường, ung thư…) cùng với việc ứng dụng các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mãn tính. Thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính phủ và các bộ, ngành về việc tạo ra môi trường sống thân thiện cho NCT (như xây dựng nhà cao tầng phải có thang máy hoặc đường đi cho xe lăn của người bị tàn tật hoặc già yếu…). Cần phải có một chương trình mục tiêu quốc gia toàn diện về chăm sóc NCT mà trong đó, cần xác định một số mục tiêu cải thiện tình trạng sức khỏe NCT, giảm các bệnh mãn tính, tàn tật và tử vong khi bước vào tuổi già.

Xây dựng và củng cố mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe NCT, đặc biệt là mạng lưới kiểm soát các bệnh mãn tính,mạng lưới bác sỹ gia đình. Mạng lưới y tế cần bảo đảm được sự tiếp cận thuận lợi cho các nhóm NCT thiệt thòi hoặc bất lợi như NCT ở nông thôn, phụ nữ cao tuổi hoặc NCT dân tộc ít người. Đặc biệt, các khó khăn về tài chính của các nhóm bất lợi này cần được giải quyết thông qua khám, chữa bệnh miễn phí hoặc hỗ trợ toàn phần bằng thẻ bảo hiểm y tế. Nhà nước cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào phát triển hệ thống các trung tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng NCT, nhất là đối với NCT có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, NCT là những người có công với đất nước, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho các trung tâm bảo trợ xã hội và các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng NCT do tư nhân cung cấp. Kết hợp hình thức này với việc khuyến khích chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng và từng bước nâng cao và mở rộng dịch vụ chăm sóc NCT tại nhà. Xây dựng hệ thống bệnh viện và tổ chức nghiên cứu lão khoa trên phạm vi cả nước. Các chương trình đào tạo người chăm sóc không chính thức như các thành viên gia đình, bạn bè đồng niên… của NCT cũng cần được xây dựng và phát triển từ cộng đồng. Đây là hoạt động xã hội hóa chăm sóc NCT cần được quan tâm ngay. Về dài hạn, với nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, Việt Nam có thể cung cấp nhân lực điều dưỡng lão khoa cho khu vực và quốc tế.

Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc xây dựng, vận động và thực hiện chính sách cho già hóa dân số và NCT. Các tổ chức này, đặc biệt là Ủy ban Quốc gia về NCT và Hội NCT Việt Nam, cần chủ động, tích cực trong việc tham gia xây dựng, góp ý các chính sách kinh tế – xã hội, y tế… cho các bộ, ngành chuyên môn để xây dựng được các chính sách nhất quán, thiết thực trong việc chuẩn bị và giải quyết các vấn đề của một dân số già hóa, cũng như cải thiện đời sống của NCT về mọi mặt. Các hoạt động vận động gia đình, cộng đồng và toàn xã hội tham gia chăm sóc NCT cần được thúc đẩy và nhân rộng.

Xây dựng được cơ sở dữ liệu có tính đại diện quốc gia và thực hiện các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi. Không có những thông tin chính xác, cập nhật về già hóa dân số và NCT thì không thể có những đánh giá xác đáng về các vấn đề kinh tế- xã hội và sức khỏe của NCT.

Giải pháp quan trọng để bảo đảm thực hiện pháp luật về NCTlà đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật NCT theo hướng tăng cường các giải pháp phát huy vai trò NCT. Đẩy mạnh xã hội hóa phát triển các dịch vụ công tác xã hội, hỗ trợ NCT sinh sống tại gia đình, cộng đồng và tăng cường an sinh xã hội đối với NCT ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu việc sắp xếp lại các Quỹ hỗ trợ NCT, bảo đảm hoạt động hiệu quả, phù hợp với các quy định pháp luật.

Chú thích:
1,2,3,4. Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc biểu dương cán bộ Hội NCT tiêu biểu giai đoạn 2015-2020, ngày 26/10/2020 tại Hà Nội.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Vụ Các vấn đề xã hội (2015). Đề án An sinh xã hội cho người cao tuổi. Bộ Y tế, 2002.
2. Viện Lão khoa. Nghiên cứu tình hình sức khỏe bệnh tật của người cao tuổi tại cộng đồng. Hà Nội, 2001.
3. Các văn kiện Đại hội Đảng X, XI, XII.
4. Luật Người cao tuổi năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
6. Bộ luật Hình sự năm 2015.
PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh
Học viện Hành chính Quốc gia