Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cộng tác viên dân số ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) –  Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới đề cập đến nội dung: “… Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển. Đưa nội dung dân số và phát triển vào chương trình đào tạo, tập huấn, nghiên cứu khoa học”. Do vậy, công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác dân sốgiai đoạn 2020 – 2025 là hết sức cần thiết, đây là một trong những mục tiêu quan trọng của công tác dân số trong tình hình mới.

 

Chị Pi Năng Thị Mydia (bên trái) tuyên truyền chính sách dân số tại một hộ dân thôn Đa Râm, xã Khánh Thượng, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa (nguồn: https://www.baokhanhhoa.vn).
Thực trạng công tác dân số ở Việt Nam

Trong những năm qua, công tác dân số (CTDS) đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đã có bước chuyển mạnh mẽ. Các đề án trọng tâm đã được triển khai như: Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; Đề án truyền thông dân số. Ngoài ra, Đề án điều chỉnh mức sinh giữa các vùng, đối tượng đang trìnhThủ tướng Chính phủ phê duyệt; Đề án nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, mạng lưới và cơ chế phối hợp liên ngành làm CTDS và phát triển các cấp cũng đang được xây dựng.

Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế sớm 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết 04-NQ/HNTW về công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình (DSKHHGĐ) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng, nhóm dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, tạo đà cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,6 tuổi năm 2019, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về DSKHHGĐ của các cấp, các ngành và toàn dân đã có bước đột phá. Mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn bộ xã hội. Dịch vụ DSKHHGĐ được mở rộng, chất lượng ngày càng cao.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, CTDS hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn thách thức cần phải tiếp tục tìm ra những giải pháp để có thể đưa ra các chủ trương, biện pháp quản lý, nhất là trong bối cảnh chuyển trọng tâm dân số từ kế hoạch hóa gia đình sangdân số và phát triển. Việc nâng cao năng lực nghiên cứu về dân số và phát triển là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, do đó, cần tăng cường đầu tư cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến dân số, bảo đảm CTDS được quan tâm một cách toàn diện.

Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của CTDS trong tình hình mới, tổ chức bộ máy làm CTDS cần phải được tổ chức lại theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời quản lý chuyên môn thống nhất. Mặt khác, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành phù hợp yêu cầu chuyển hướng chính sách dân số, từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số cũng là một nhiệm vụ cấp thiết. Nghị quyết số 21-NQ/TW cũng đã chỉ rõ cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển.

Vai trò của cán bộ dân số

Cán bộ dân số là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực dân số. Cán bộ dân số là người đi sâu, đi sát đến từng hộ gia đình, từng người dân, sát với cuộc sống của dân, họ đưa các chính sách DS-KHHGĐ đến với Nhân dân. Không chỉ thế, cán bộ dân số còn trực tiếp thu thập thông tin, cập nhật số liệu, tình hình DS-KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng, chống suy dinh dưỡng, phòng, chống các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục… để đề xuất giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Đội ngũ cộng tác viên dân số có vai trò quan trọng đối với ngành Dân số, vì hầu hết là người địa phương, gần dân, sát cơ sở, hiểu địa bàn nên phát huy tốt vai trò truyền thông, vận động nhân dân thực hiện các chính sách về DSKHHGĐ.Hơn nữa, CTDS là hoạt động mang tính xã hội hóa cao, vì vậy, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể tại cộng đồng thì vai trò của cán bộ dân số cơ sở trong công tác tuyên truyền, vận động để người dân hiểu và thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác DS-KHHGĐ là rất quan trọng.

Giải pháp nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ dân số

Để đội ngũ cán bộ dân số, cộng tác viên dân số hoạt động hiệu quả thì việc tập huấn nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng tuyên truyền, vận động là hết sức quan trọng, cần thiết, đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách dân số và phát triển; đưa nội dung dân số và phát triển vào chương trình tập huấn, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học; có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố…

Để các chương trình bồi dưỡng đạt hiệu quả cần tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp sau:

Một là, bồi dưỡng, cung cấp thông tin về CTDS và phát triển cho cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) là lãnh đạo, quản lý và thành viên Ban Chỉ đạo CTDS và phát triển các cấp.

Phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTDS; các văn bản, quy định, chính sách hiện hành về CTDS và phát triển thông qua các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước về thực hiện CTDS và phát triển.

Xây dựng, cập nhật tài liệu bồi dưỡng, tập huấn về nội dung dân số và phát triển phù hợp với CTDS và phát triển các cấp; nội dung bồi dưỡng, tập huấn tập trung vào trọng tâm của CTDS hằng năm và gắn với kế hoạch, nội dung, chương trình công tác.

Các địa phương phối hợp với Tổng cục DSKHHGĐ, các giảng viên cấp trung ương bồi dưỡng, tập huấn cho thành viên Ban Chỉ đạo CTDS và phát triển cấp tỉnh; giảng viên thuộc các cơ quan cấp trung ương, cấp tỉnh chịu trách nhiệm bồi dưỡng, tập huấn cho thành viên Ban Chỉ đạo CTDS và phát triển cấp huyện; giảng viên các cơ quan trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện chịu trách nhiệm bồi dưỡng, tập huấn cho thành viên Ban Chỉ đạo CTDS và phát triển cấp xã.

Hai là, bồi dưỡng, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng về CTDS cho CBCCVC dân số.

Xây dựng tài liệu bồi dưỡng, tập huấn về CTDS và phát triển; đưa nội dung dân số và phát triển vào các chương trình bồi dưỡng, tập huấn. Thường xuyên cập nhật thông tin mới về CTDS; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp bồi dưỡng để đạt hiệu quả tốt, nâng cao chất lượng và mang tính thực tiễn cao.

Liên kết, phối hợp với các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng, các đơn vị đào tạo để mời giảng viên có kinh nghiệm, năng lực, uy tín tham gia giảng dạy các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng về CTDS.

Ba là, bồi dưỡng kiến thức y học cơ bản liên quan đến CTDS cho CBCCVC làm CTDS chưa được đào tạo qua ngành Y tế.

Xây dựng kế hoạch, nội dung mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên ngành Y tế, kiến thức y học cơ bản liên quan đến CTDS cho CBCCVC;

Liên kết, phối hợp với các cơ sở ĐTBD được Bộ Y tế cấp mã chứng nhận được đào tạo liên tục để tổ chức thực hiện các chương trình bồi dưỡng, tập huấn chuyên ngành y tế, kiến thức y học cơ bản liên quan đến CTDS, tạo điều kiện cho CBCCVC thuận tiện tham gia học tập, bồi dưỡng.

Bốn là, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp công chức, viên chức dân số.

Căn cứ Quyết định số 4932/QĐ-BYT ngày 10/8/2018 của Bộ trưởng Bộ y tế ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dân số viên hạng II; Quyết định số 4940/QĐ-BYT ngày 10/8/2018 ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dân số viên hạng III; Quyết định số 4931/QĐ-BYT ngày 10/8/2018 ban hành Chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dân số viên hạng IV. Các đơn vị cần liên kết, phối hợp với các cơ sở đào tạo xây dựng kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dân số viên hạng hạng IV, hạng III, hạng II, tạo điều kiện cho CCVC thuận tiện tham gia học tập.

Năm là, xây dựng đội ngũ giảng viên cấp tỉnh, cấp huyện.

Xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức có trình độ chuyên môn phù hợp; có ít nhất 3 năm kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về công tác ĐTBD và có năng lực sư phạm, xem đây là nguồn lực cơ bản trong việc bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp và truyền thụ kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ công vụ cho CBCCVC cơ sở.

Hằng năm, lựa chọn và cử CBCCVC là lãnh đạo, quản lý ở cấp tỉnh, cấp huyện là dự nguồn giảng viên kiêm chức tham gia các khóa bồi dưỡng phù hợp với chức danh và yêu cầu nhiệm vụ được giao. Khuyến khích CCVC tự học và đào tạo trình độ đại học, trên đại học phù hợp với chuyên môn, gắn với quy hoạch sử dụng lâu dài, đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, có cơ cấu hợp lý, có trình độ lý luận và kiến thức thực tiễn, kiến thức và kinh nghiệm quản lý nhà nước.

Quan tâm xây dựng đội ngũ CBCCVC, cộng tác viên dân số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẽ đóng góp rất lớn tới việc ổn định quy mô dân số, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Theo đó, mô hình tổ chức bộ máy làm CTDS hiện nay được coi là một thách thức lớn đối với CTDS. Chính vì vậy, củng cố hệ thống tổ chức bộ máy, nhất là ở cấp huyện và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ dân số là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, tương xứng với mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết 21-NQ/TW đề ra.

Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống ngành Dân số – kế hoạch hóa gia đình Việt Nam và Tháng hành động quốc gia về Dân số năm 2021.
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.
Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.
Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

TS. Lê Thị Thu Phượng
Học viện Hành chính Quốc gia