Nâng cao trách nhiệm công vụ ở Việt Nam hiện nay

TS. Nguyễn Thị Anh Thư
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Trách nhiệm công vụ không chỉ là một khái niệm gắn với cơ chế quản lý nhân sự trong khu vực công mà còn mang tính chính trị, tạo dựng hình ảnh của chế độ, của nhà nước trong mắt người dân. Đó là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nhiệm vụ đó một cách tốt nhất.

Từ khoá: Trách nhiệm công vụ; cán bộ, công chức; quản lý nhân sự; khu vực công; quyết định hành chính.

1. Công vụ và trách nhiệm công vụ

Khi xem xét thuật ngữ “công vụ”, hiện có rất nhiều cách hiểu khác nhau gắn liền với các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động và con người thực thi hoạt động đó. Khoa học luật hành chính nhiều nước cho rằng, công vụ có nội dung thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, an ninh, quốc phòng nhằm thoả mãn nhu cầu chung của xã hội trên cơ sở đ­ường lối chính trị đã hoạch định. Tất cả những hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ Nhân dân, thi hành pháp luật, đ­­ưa pháp luật vào đời sống để bảo đảm kỷ c­­ương của xã hội.

Mặt khác, các đạo luật đều được cụ thể hoá bằng những quyết định của cơ quan quản lý nhà nước. Việc thực hiện các quyết định hành chính nhà nước chính là thi hành luật. Có thể thấy công vụ là một khái niệm mang tính lịch sử và gắn liền với thiết chế chính trị của mỗi quốc gia khác nhau. Vì vậy, hiện nay đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về công vụ, không có một khái niệm chung cho tất cả các quốc gia, đồng thời nó còn được thay đổi cho thích ứng với bối cảnh chính trị – xã hội ở mỗi thời kỳ. 

Thứ nhất, công vụ được hiểu là các hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức thuộc khu vực công, kể cả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp (bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình… do nhà nước thành lập) và các cơ quan, đơn vị quân đội, công an; 

Thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động do người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với hoạt động có tính chuyên môn nghề nghiệp của các đối t­ượng trong bộ máy nhà nước; 

Thứ ba, công vụ là hoạt động do công chức làm việc trong bộ máy hành pháp (các cơ quan hành chính nhà nước) thực hiện. Mặc dù có nhiều quan niệm ở các cấp độ khác nhau về công vụ nhà nước, nhưng điểm chung nhất của các quan niệm trên là tính chất phục vụ cộng đồng, xã hội do các cơ quan nhà nước (hay nhà nước thành lập) thực hiện theo qui định pháp luật. Ở Việt Nam, Điều 2 Luật Cán bộ, công chức, quy định hoạt động công vụ “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan”. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ qui định và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được giao.

Trách nhiệm công vụ là việc cán bộ, công chức, viên chức tự ý thức đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả hoạt động công vụ gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được tổ chức, cấp trên trao cho trên cơ sở Luật định.

2. Trách nhiệm công vụ ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra

Hiện nay, vấn đề trách nhiệm công vụ ở nước ta được xem xét theo hai nhóm đối tượng cán bộ, công chức là trách nhiệm của người đang giữa vị trí lãnh đạo, quản lý và trách nhiệm của người thừa hành. Trong đó, có những trách nhiệm công vụ mang tính chung cho cả hai nhóm. Điều 3, Luật Cán bộ, công chức, quy định các nguyên tắc trong thi hành công vụ như: “công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát”, “bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ” nhằm bảo đảm thẩm quyền phải gắn với chức trách được giao. Từ đó, tạo cơ sở nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. 

Điều 5, Luật Cán bộ, công chức nhấn mạnh: “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng” nhằm xác định trách nhiệm trong hoạt động công vụ để xử lý các sai phạm hoặc khen thưởng, đánh giá thực hiện một cách chính xác và kịp thời. 

Ngoài ra, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến thể chế chính trị, chế độ nhà nước và Nhân dân (Điều 8, Luật Cán bộ, công chức); trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong thi hành công vụ (Điều 9, Luật Cán bộ, công chức). Các quy định liên quan đến đạo đức, văn hóa giao tiếp cũng như những việc cán bộ, công chức không được làm cũng thể hiện trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức. Khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 56 của Luật Cán bộ, công chức quy định trách nhiệm là một trong 5 nội dung cần thiết khi đánh giá cán bộ và là một trong 6 nội dung cần thiết khi đánh giá công chức.

Trách nhiệm công vụ đối với người giữ vị trí lãnh đạo theo quy định ở Luật Cán bộ, công chức về cơ bản tiếp cận theo hướng gắn với trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền (tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý công chức) như: trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu (Điều 10); quy định về cơ quan thực hiện tuyển dụng công chức (Điều 39); tổ chức thi nâng ngạch công chức (Điều 46); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đào tạo, bồi dưỡng công chức (Điều 48); trách nhiệm đánh giá công chức (Điều 57); chế độ báo cáo về công tác quản lý cán bộ, công chức (Điều 68); quản lý hồ sơ cán bộ, công chức (Điều 69). Trách nhiệm trong hoạt động công vụ thể hiện ở quy định về việc xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ (khoản 1 Điều 30) và từ chức, miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý (Điều 54), đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Việc đánh giá công chức đã được Điều 57 Luật Cán bộ, công chức giao trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng công chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp mà không phải do tập thể đánh giá, bỏ phiếu như trước đây.

Tuy nhiên, tình trạng thiếu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ hiện nay còn những hạn chế nhất định và có nguy cơ làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự thiếu hợp lý về phân công, bố trí, sắp xếp công việc do áp lực về hiệu quả và chất lượng dẫn tới có người hầu như không được giao việc hoặc được giao ít việc hay việc ít quan trọng bởi năng lực hạn chế. 

Chế độ đãi ngộ và sự đánh giá giữa người làm nhiều và người làm ít lại không có gì khác biệt, thậm chí một số người tuy làm ít, chịu trách nhiệm thấp nhưng lương và đãi ngộ còn cao hơn những người có khối lượng công việc tương đương hoặc làm nhiều hơn bởi họ ở ngạch, bậc cao hơn. Điều này dẫn tới sự bất cập về ý thức trách nhiệm trong công vụ. Do đó, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm công vụ là cần thiết để góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; làm cơ sở để xử lý khi cán bộ, công chức vi phạm, góp phần thiết thực vào công cuộc phòng và chống tham nhũng; là điều kiện nâng cao năng lực cán bộ, công chức.

3. Yêu cầu hoàn thiện các quy định bảo đảm trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay

Để bảo đảm trách nhiệm công vụ được thực hiện nghiêm túc, góp phần cải thiện chất lượng và kết quả thực thi công vụ, cần phải hoàn thiện các quy định gắn với trách nhiệm công vụ.

Thứ nhất, khi phân công/giao nhiệm vụ cần bảo đảm người thực thi công vụ hiểu được chính xác trách nhiệm mà mình phải thực hiện và mức độ phải gánh chịu khi không thực hiện đúng trách nhiệmSự thiếu rõ ràng và không chuyên nghiệp trong giao việc dẫn tới người thực thi có thể không làm đúng với yêu cầu, không đạt kết quả như mong muốn, hoặc kéo dài thời gian theo quy định nhưng lại không thể quy trách nhiệm và xử lý vi phạm. Để thực hiện điều này trong nội dung giao việc cấp trên cần làm rõ để cấp dưới nắm được những yêu cầu như: 

– Bản chất của công việc cần làm là gì? 

– Lợi ích đem lại cho tổ chức và cá nhân khi thực hiện công việc ra sao? 

– Trách nhiệm thực hiện được trao cho tổ chức, cá nhân cụ thể nào? căn cứ vào đâu để trao trách nhiệm đó? họ có khả năng thực hiện trách nhiệm đó đến đâu?

– Vai trò, vị trí của người thực hiện trong mối quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp ra sao khi thực hiện nhiệm vụ được phân công? 

– Thẩm quyền đến đâu khi thực hiện nhiệm vụ? 

– Trách nhiệm cá nhân đối với kết quả công việc (số lượng, chất lượng, thời gian) là gì? 

– Làm thế nào để kiểm soát tiến trình thực hiện trách nhiệm đó? 

– Người được giao nhiệm vụ đã ý thức đầy đủ về trách nhiệm của bản thân trước cơ quan, cấp trên và xã hội hay chưa? 

– Nếu có vi phạm thì chế tài áp dụng nhằm bảo đảm tính chịu trách nhiệm là gì, thi hành dựa trên cơ sở nào và ai là người xử lý? 

Đây là những căn cứ chính cần được bảo đảm khi xây dựng các quy định pháp lý. Làm như vậy thì các quy phạm pháp luật mới có tính khả thi để đo lường trách nhiệm, mức độ ý thức về trách nhiệm và khả năng chịu trách nhiệm thông qua các biện pháp chế tài đủ để tác động lên ý thức người thực hiện công vụ. Nhờ đó, các thành viên trong tổ chức sẽ chấp nhận làm theo và tự nguyện, tự giác điều chỉnh hành vi, thái độ và cảm xúc của mình một cách có trách nhiệm. Bởi trên thực tế, có những công chức thiếu ý thức tổ chức kỷ luật không phải vì họ cố ý vi phạm mà là do họ nhận thức sai lầm về những điều nói trên. 

Thứ hai, trách nhiệm công vụ cần quy định gắn trực tiếp với trách nhiệm cá nhân để bảo đảm tính rõ ràng. Để bảo đảm trách nhiệm công vụ, điều quan trọng nhất là phải thiết lập được nhiệm vụ đối với cá nhân và quy trách nhiệm cho họ. Nhiệm vụ cá nhân phải được qui định rõ ràng sẽ là cơ sở để phân công trách nhiệm, xây dựng quy chế phối hợp, xác định chính xác khối lượng, chất lượng và thời gian hoàn thành công việc. Đồng thời, làm rõ mức độ trách nhiệm cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ và nếu có lỗi thì chịu trách nhiệm ra sao. Điều này góp phần khắc phục tình trạng khi đạt kết quả thì cá nhân nhận thành tích cho mình, nhưng khi sai phạm thì không quy được trách nhiệm cho ai, không tích cực xử lý và khó khắc phục hậu quả. Để thực hiện trách nhiệm công vụ cần gắn với cơ chế phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu.

Thứ ba, trách nhiệm công vụ cần gắn với các biện pháp thưởng phạt nghiêm minh để bảo đảm tính thiết thực và khuyến khích việc thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về công vụTrách nhiệm, kết quả hoàn thành công việc phải gắn với chế độ thưởng phạt rõ ràng, nghiêm minh. Đối với những người tận tụy, có trách nhiệm cao đối với công việc cần phải được đánh giá khách quan, công bằng để kịp thời khen thưởng. Những người thiếu trách nhiệm, lơ là trong công việc hoặc để xảy ra hậu quả làm ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng công việc hay uy tín cơ quan thì phải xử lý nghiêm theo quy định pháp luật và cần thiết thì bố trí lại công việc hay cho rời khỏi nền công vụ. 

Vì vậy, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với thực hiện Luật Cán bộ, công chức nói chung và trách nhiệm trong hoạt động công vụ nói riêng là hoạt động cần thiết nhằm kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong thực thi công vụ. Đồng thời đẩy mạnh việc hoàn thiện công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức tạo cơ sở thực hiện tinh giản đối với những người năng lực hạn chế là yêu cầu cấp thiết cần đặt ra nhằm bảo đảm tính cạnh tranh trong công vụ. Từ đó, có các tác động tích cực đến nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ công chức khi thực thi công vụ.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
3. Bộ Nội Vụ, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước. Những vấn đề cơ bản về hành chính nhà nước và chế độ công vụ, công chức. H. NXB Văn hóa Thông tin, 2014.
4. Nguyễn Hữu Hải. Cải cách hành chính nhà nước – Lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị Quốc gia, 2016.