Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

ThS. Đỗ Thị Trang
Trường Đại học Kinh tế – Kỹ thuật công nghiệp

(Quanlynhanuoc.vn) – Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là toàn bộ hoạt động có mục đích của các chủ thể trong hệ thống chính trị nhằm tạo động lực cơ bản trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, đánh giá khái quát thực tiễn và đưa ra một số giải pháp cơ bản về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện hiện nay.

Từ khóa: Dân chủ; phát huy dân chủ; xã hội chủ nghĩa; Việt Nam; phát triển.

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa

Quan niệm về dân chủ đã có từ thời Hy Lạp cổ đại, vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên, dân chủ lúc này được hiểu là Nhân dân cai trị và sau này được hiểu là chính quyền của Nhân dân hay quyền lực thuộc về Nhân dân. Như vậy, dân chủ được xác nhận như là một quyền lực của xã hội thuộc về đa số nhân dân. Nhân dân trao quyền lực của mình cho Nhà nước, Nhà nước là đại diện quyền lực, bảo vệ và thực thi quyền lực của Nhân dân.

Trong hệ thống lý luận và thực tiễn đời sống chính trị – xã hội, dân chủ luôn là vấn đề có tính thời sự sâu sắc được phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử với rất nhiều tư tưởng, quan điểm, học thuyết khác nhau nhưng đến nay nó vẫn luôn là một vấn đề mở, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật của mỗi Nhà nước và cộng đồng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,dân chủ là một giá trị căn bản, đích thực của văn minh nhân loại, là sự biểu đạt thành quả của quá trình đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột giành quyền tự do, bình đẳng trên thực tế; là sự phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng của con người trong bước chuyển từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc của tự do”. Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, C.Mác đã chỉ rõ: từ “dân chủ” nếu chuyển qua tiếng Đức thì có nghĩa là “Nhân dân nắm chính quyền”1. Điều đó cũng có nghĩa dân chủ chính là Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, Nhân dân tạo nên Nhà nước, chứ không phải nhà nước tạo nên Nhân dân. Dân chủ được hiểu là quyền bình đẳng làm chủ của Nhân dân trong đời sống xã hội và quan hệ xã hội, là mọi quyền lực xã hội thuộc về Nhân dân.

Phát huy tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về dân chủ, V.I.Lênin đã luận giải một cách toàn diện, tập trung làm rõ bản chất, giá trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) biểu hiện tập trung ở Nhà nước Xô Viết trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”2. Theo V.I.Lênin, dân chủ là bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; tự do chính trị cho mọi công dân; quyết định theo đa số của mọi công dân; quyết định bằng cách biểu quyết. Với ý nghĩa là một giá trị, dân chủ không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính toàn nhân loại, gắn liền với trình độ văn minh mà con người đạt được, gắn liền với khát vọng tự do, bình đẳng và trình độ đạt được của con người trong cuộc đấu tranh giải phóng chính bản thân con người khi đồng thời giải phóng xã hội.

Kế thừa những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ, dân chủ vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra hệ thống quan niệm, bản chất, nội dung, vai trò của dân chủ và phát huy dân chủ. Theo Người, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”3. Dân chủ là của quý báu nhất của Nhân dân, vì địa vị cao nhất là dân là chủ. Đó là thước đo về trình độ phát triển ý thức của Nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị. Người cũng khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả các quyền trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”4. “Bao nhiêu lợi ích thuộc về dân. Bao nhiêu quyền đều là của dân. Quyền hành và lực lượng là ở nơi dân”5. Vì vậy, tôn trọng dân chủ thì tất yếu phải đề cao dân, phải trọng dân (tôn trọng, kính trọng, lễ phép) và trọng pháp (pháp luật để bảo vệ dân). Dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nền dân chủ thực sự là nền dân chủ mà ở đó Nhân dân phải thực sự là chủ thể đích thực của xã hội, làm chủ một cách toàn diện: làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội và làm chủ chính bản thân mình. Mặt khác, dân chủ phải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị đến dân chủ trong đời sống văn hóa – tinh thần, tư tưởng. Như vậy, quan điểm xây dựng một nền dân chủ kiểu mới của Hồ Chí Minh chính là nền dân chủ XHCN, một nền dân chủ tiến bộ và phù hợp với khát vọng của đông đảo quần chúng nhân dân.

Như vậy, dân chủ XHCN là một hình thức chính trị của nhà nước XHCN, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Phát huy dân chủ XHCN trong điều kiện mới là toàn bộ những hoạt động có mục đích của các chủ thể trong hệ thống chính trị, làm cho nền dân chủ XHCN mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã xây dựng tiếp tục phát triển sâu rộng trong toàn xã hội đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công. Công việc đó được thực hiện bởi hệ thống chính trị với một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn xây dựng XHCN ở Việt Nam cho thấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị.

2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và dân chủ XHCN nói riêng là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng dân chủ XHCN, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Nền dân chủ XHCN ở nước ta đã hình thành và phát triển qua các thời kỳ cách mạng, qua mỗi kỳ Đại hội của Đảng, dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn thiện đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Thực tiễn chứng minh, do giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành một Đảng chiến đấu, Đảng hành động, có sức mạnh tổ chức, kỷ luật cao. Đảng ta luôn xác định rằng, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm; dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị XHCN.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”6.

Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm về xây dựng nền dân chủ XHCN qua các thời kỳ, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước”7. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thực sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”8. Quyền làm chủ đất nước của Nhân dân là bản chất và cốt lõi của nền dân chủ XHCN. Do đó, phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới, “thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở”9 là những yêu cầu quan trọng và cấp thiết, góp phần xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Qua thực tiễn đổi mới, với tư duy lý luận sắc sảo, khoa học, Đảng ta đã mở ra một khả năng và triển vọng tốt đẹp để xây dựng xã hội dân chủ, trong đó Nhân dân là người chủ chân chính của xã hội, là chủ thể quyền lực. Vấn đề đặt ra phải thực hành dân chủ rộng rãi và nghiêm túc, trước hết là dân chủ trong Đảng, sau đó thực hành dân chủ trong toàn xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, phát huy dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, là phương thức để thực hiện quyền lực của Nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội.

3. Thực tiễn phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ ở nước ta là chế độ bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, tinh thần; phát huy cao độ vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không chỉ trong các văn bản Hiến pháp, pháp luật, mà quan trọng hơn hết, quyền làm chủ của Nhân dân ngày càng được thể hiện sinh động trong đời sống xã hội. Điều đó thể hiện sâu sắc bản chất tốt đẹp, thể hiện rõ mục tiêu, động lực của dân chủ XHCN đối với sự phát triển đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ XHCN tiếp tục được phát huy”10. Từ năm 2016 – 2021, “các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội tổ chức hơn 90.000 hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân”11. Trên cơ sở đó, đã tạo được sự đồng thuận, thống nhất giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Bên cạnh đó, người dân trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật thông qua việc lấy ý kiến trực tiếp, các hội nghị, hội thảo…, từ đó đi đến thống nhất về cách thức, biện pháp tổ chức, triển khai thực hiện. Nhân dân thực hiện quyền con người, quyền công dân trong bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp… trực tiếp hiện thực hóa, hiệu quả hóa chủ trương, chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Nhiều cơ sở pháp lý đã được ban hành nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân được Quốc hội thông qua, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; Nghị định số 04/NĐ/CP ngày 24/01/2013 về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 60/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc… Ngoài ra, thông qua cơ chế dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện gián tiếp, nhân dân đã thật sự phát huy trách nhiệm trong công tác phát hiện, xử lý các vi phạm của cơ quan Nhà nước, cán bộ, đảng viên góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Những năm gần đây, nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến đáng kể. Vai trò, chức năng và hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội của các cơ quan quyền lực các cấp được tăng cường. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã khẳng định kết quả đạt được “Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng cường”12.

Những năm qua,bên cạnh những thành quả đạt được,việc phát huy dân chủ XHCN ở nước ta còn một số hạn chế nhất định. Vai trò của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa thực sự được phát huy. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội chưa thực sự hiệu quả. “Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”13. Cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ. Bên cạnh đó, Đảng đã thẳng thắn thừa nhận việc “chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”14.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân chưa hoàn thiện, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Một số cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm gương về phát huy dân chủ trong xã hội, còn xem nhẹ vai trò của việc thực hành dân chủ, công tác lãnh đạo chưa sâu sát, còn mang tính hình thức. Một số cán bộ, đảng viên, công chức chưa nhận thức rõ ràng, đầy đủ về vai trò, trách nhiệm trong thực hiện dân chủ. Người dân chưa hiểu biết về các quyền dân chủ, cơ chế thực hiện dân chủ, thiếu tính tích cực, chủ động trong tham gia quá trình này.

4. Một số giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay

Để phát huy bản chất tốt đẹp của nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của Nhân dân, thời gian tới, cần tiếp tục chú trọng thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị và nhân dân trong xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, thực hiện dân chủ hóa trong sinh hoạt của các cấp ủy Đảng; đồng thời, tiếp tục cụ thể hóa, quy chế hóa để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đổi mới, dân chủ hóa quá trình hoạch định các quyết sách chính trị của Đảng; kiện toàn và nâng cao chất lượng của các cơ quan tham mưu, tạo sự liên thông giữa các cơ quan tham mưu trong hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất, năng lực, đạo đức và tác phong công tác. Các tổ chức đảng và đảng viên phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở, phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Từ đó, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, thực sự là tấm gương tiêu biểu về dân chủ và thực hành dân chủ.

Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể vững mạnh, trong sạch, có phương thức hoạt động khoa học phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành tố và có quan hệ máu thịt với nhân dân. Đặc biệt, phải hoàn thành và thực hiện đầy đủ các cơ chế dân chủ từ trung ương đến cơ sở, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương, đơn vị, mọi làng xã, cơ quan xí nghiệp…, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền lợi dân chủ của mình. Mỗi người dân phải nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức, trách nhiệm, chủ động, tự giác và tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vào thực hiện dân chủ XHCN trên mọi lĩnh vực xã hội. Tự giác và kiên quyết đấu tranh với mọi quan điểm, hành vi sai trái lợi dụng dân chủ để gây rối, xuyên tạc, chống phá chế độ XHCN.

Hai làtiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh là điều kiện quan trọng phát huy dân chủ XHCN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta phải thực thi quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Do đó, cần tập trung dân chủ để góp phần làm tăng hiệu lực của quản lý nhà nước pháp quyền XHCN, nhất là quản lý kinh tế, quản lý các nguồn lực của sự phát triển.

Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Kiên quyết loại trừ các hiện tượng quản lý xã hội, quản lý đất nước chỉ bằng các chỉ thị, các nghị quyết chung chung mà không bằng pháp luật. Loại bỏ sự bất bình đẳng giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng như các tổ chức hợp pháp trong xã hội, dẫn đến tuyệt đối hóa “quyền” của đảng cầm quyền, hoặc “quyền tối cao” của Nhà nước mà vi phạm quyền làm chủ của công dân hoặc quyền làm chủ theo chức năng của các cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị – xã hội; ngăn ngừa hành vi lạm quyền của viên chức nhà nước trong thi hành công vụ. Tất cả pháp luật do Nhà nước định ra đều phải dựa trên ý nguyện của Nhân dân lao động, được nhân dân lao động góp ý. Xây dựng mối quan hệ đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân, gắn liền quyền, lợi ích với nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Đồng thời, cần phải đổi mới hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng như cơ quan tư pháp, xét xử làm cho các hoạt động này vừa khách quan vừa thực chất.

Ba lànâng cao vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong phát huy dân chủ XHCN.

Cần xây dựng cơ chế phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của từng người dân, của các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt trận Tổ quốc cần thực hiện tốt các chức năng giám sát, đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Phát huy tính tích cực chính trị – xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng, thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng các giá trị văn hóa, tinh thần,…

Bốn là, thực hiện dân chủ có chất lượng và hiệu quả trên các lĩnh vực đời sống xã hội đi đôi với tăng cường kỷ cương, pháp luật.

Dân chủ phải được hiện thực hóa trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, ngành trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của hệ thống chính trị và nhân dân. Dân chủ phải gắn với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy đầy đủ, đồng bộ, có tính khả thi; kịp thời xử lý những vi phạm quyền dân chủ của Nhân dân hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, coi thường kỷ cương phép nước; xử lý nghiêm minh, công bằng, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Đồng thời, tích cực đấu tranh, phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị – xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của Nhân dân. Đặc biệt, cần xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân. Tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam cản trở việc thực hiện dân chủ với âm mưu thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, xóa bỏ nền dân chủ XHCN, hướng nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ phi XHCN.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, thực hiện quan điểm của Đảng về phát huy quyền dân chủ của Nhân dân.

Cần chú trọng đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao trình độ nhận thức, ý thức trách nhiệm về quyền làm chủ và năng lực thực hành dân chủ cho các tầng lớp nhân dân. Xây dựng nếp sống, thói quen tôn trọng dân chủ, chống các hành vi tự do cá nhân cực đoan, quá khích, vô chính phủ hoặc thái độ thờ ơ chính trị, an phận, không gương mẫu thực hiện quyền nghĩa vụ công dân. Tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về quá trình thực hiện Quy chế dân chủ với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng thành hệ thống quy chế trên các lĩnh vực hoạt động của xã hội, của hệ thống chính trị, tạo thành nếp sống dân chủ trong toàn xã hội. Đồng thời, tiếp tục thực hiện các quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội thiết thực, hiệu quả, phát huy vai trò chủ thể của Nhân dân trong công cuộc đổi mới.

5. Kết luận

Trong công cuộc đổi mới, phát huy dân chủ XHCN chính là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nghiêm túc việc phát huy vai trò của Nhân dân và dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chắc chắn sẽ góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập. Tập 19. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 1995, tr. 44 – 45.
2. V.I.Lênin toàn tập. Tập 38. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2005, tr. 414.
3. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 434.
4. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 262.
5. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 276.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 84 – 85.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 71.
8. Nguyễn Phú Trọng. Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng khó khăn nào cũng vượt qua. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 751.
9, 10, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 173, 70, 89, 90.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 204.
12. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
2. Hiến pháp năm 2013.
3. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022.