Nâng cao chất lượng công tác tham mưu của lãnh đạo, quản lý cấp phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Tham mưu là nhiệm vụ thường trực của cá nhân, một đơn vị, một cơ quan, tổ chức đối với cấp trên và cấp có thẩm quyền. Công tác tham mưu luôn được coi là mảng hoạt động quan trọng của người lãnh đạo, quản lý cấp phòng. Một đơn vị, tổ chức hoạt động thông suốt, hiệu quả một phần nhờ vào công tác tham mưu của người lãnh đạo cấp phòng. Bài viết chỉ ra một số khó khăn, thách thức và có những đề xuất đối với công tác tham mưu của lãnh đạo cấp phòng trong bối cảnh hiện nay.

 

Lớp bồi dưỡng kỹ năng tổng hợp cho đội ngũ lãnh đạo quản lý cấp phòng được tổ chức tại Kiểm toán Nhà nước (Ảnh: internet).

Công tác tham mưu (CTTM) luôn được coi là mảng hoạt động quan trọng của người lãnh đạo, quản lý (LĐQL) cấp phòng. Tham mưu không nên hiểu đơn thuần là giúp việc, là “bảo sao làm vậy” mà tham mưu cần được hiểu là tham dự, can dự, đề xuất chủ trương cho LĐQL cấp trên. Đồng thời, tham mưu còn là hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện về lĩnh vực mình đảm trách cho cấp dưới.

Do đó, tham mưu chính là sự tham gia vào quá trình LĐQL theo thẩm quyền. Tham mưu có trách nhiệm và đồng thời tham mưu cũng có quyền hạn trong đó. Một cá nhân, một đơn vị, một cơ quan, tổ chức khi được cấp trên giao nhiệm vụ thực thi công việc thì cũng phải xác định nhiệm vụ tham mưu cho cấp trên và cấp có thẩm quyền những gì liên quan đến công việc. Vì vậy, tham mưu luôn là nhiệm vụ thường trực của cá nhân, một đơn vị, một cơ quan, tổ chức đối với cấp trên và cấp có thẩm quyền.

Vai trò, trách nhiệm tham mưu của lãnh đạo, quản lý cấp phòng
Về vị trí, chức năng của lãnh đạo, quản lý cấp phòng

Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định số 47/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 quy định về cơ quan thuộc Chính phủ, đối với các bộ và cơ quan ngang bộ thì “Ban và Văn phòng được thành lập phòng hoặc tổ chức tương đương”.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ và cơ quan ngang bộ, “đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo quy định của pháp luật” (khoản 3 Điều 23 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ). Do đó, phòng và tương đương của các đơn vị sự nghiệp này sẽ được quy định cụ thể trong các quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng đơn vị.

Đối với các địa phương, cơ cấu tổ chức của sở thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, ngoài bộ phận văn phòng, thanh tra,… thì có các phòng chuyên môn, nghiệp vụ (khoản 3 Điều 5 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện) hiện có các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện gồm có phòng và cơ quan tương đương phòng (khoản 2 Điều 1 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Như vậy, phòng (tương đương phòng) được hiểu là một tổ chức gắn với chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ của một cơ quan, đơn vị. Trong bộ máy quản lý nhà nước, phòng là một cấp. Cấp trên trực tiếp của phòng ở trung ương là các ban, văn phòng, cục, viện và các đơn vị khác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Cấp trên trực tiếp của phòng ở địa phương là sở, ban, UBND cấp huyện của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Chức năng chung của cấp phòng là chuyển tải và tổ chức thực hiện các quyết định của cấp trên trực tiếp và phản ánh những yêu cầu, nguyện vọng, đề xuất của công chức đơn vị với lãnh đạo cấp trên. Đặc biệt, phòng có chức năng tham mưu, giúp thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý các lĩnh vực công tác chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ mà phòng được phân công. Theo đó, trong các quyết định thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các cơ quan đơn vị ở trung ương và địa phương sẽ quy định cụ thể về chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương. Số lượng, chức năng, nhiệm vụ của lãnh đạo cấp phòng và tương đương có thể là khác nhau ở các đơn vị, bộ ngành, địa phương. Tuy nhiên, có thể khái quát thành những điểm chung  như sau:

Hiện nay, ở nước ta, LĐQL cấp phòng bao gồm: trưởng phòng và các phó trưởng phòng. Lãnh đạo cấp phòng có các nhiệm vụ chủ yếu là: (1) Xây dựng, trình thủ trưởng cơ quan để thủ trưởng cơ quan trình cấp có thẩm quyền các đề án, dự án; (2) Xây dựng, trình thủ trưởng cơ quan, đơn vị ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện công tác chuyên môn theo quy định của pháp luật; (3) Xây dựng, trình thủ trưởng cơ quan, đơn vị ban hành các quyết định, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, hằng năm thuộc lĩnh vực quản lý của phòng; (4) Tổ chức thực hiện công tác chuyên môn của phòng; đôn đốc hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện lĩnh vực công tác do phòng quản lý; (5) Trực tiếp quản lý con người, cơ sở vật chất, tài chính (nếu có) của phòng; (6) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của thủ trưởng cơ quan.

Từ các nhiệm vụ được giao nêu trên, sẽ có nhiều hình thức tham mưu xuất phát từ những góc độ khác nhau. Cụ thể: (1) Nhìn nhận từ cách thức tham gia của người tham mưu đối với sự việc, hiện tượng (tham mưu bằng hình thức tư vấn; tham mưu bằng việc tham gia vào các hội đồng chuyên môn; tham mưu bằng việc thẩm định). (2) Nhìn nhận từ việc tham gia, can dự vào các giai đoạn cụ thể của chu trình hoạch định chính sách, chu trình quản lý (tham mưu cho sự hoạch định; tham mưu cho sự tổ chức thực hiện; tham mưu cho sự chỉ đạo, hướng dẫn; tham mưu cho sự kiểm tra, đánh giá). (3) Nhìn nhận từ việc tham gia, can dự vào các yếu tố cấu thành nội dung quản lý (tham mưu về mặt thẩm quyền; tham mưu về tiêu chuẩn, quy chuẩn; tham mưu về quy trình, thủ tục). (4) Nhìn nhận từ yếu tố phương tiện thực hiện tham mưu (tham mưu bằng lời; tham mưu bằng văn bản). (5) Nhìn nhận từ yếu tố người tham mưu để tham mưu cho người được tham mưu (tham mưu của cơ quan, tập thể, đơn vị; tham mưu của cá nhân).

Về trách nhiệm tham mưu của lãnh đạo, quản lý cấp phòng

– Đối với sự phát triển của ngành, lĩnh vực: LĐQL cấp phòng sẽ đại diện cho phòng tham mưu về các hoạt động quản lý nhà nước, phục vụ dịch vụ công liên quan đến ngành và lĩnh vực ở địa phương theo thẩm quyền. Vì vậy, phòng – thông qua đại diện là lãnh đạo cấp phòng sẽ can dự vào việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực theo thẩm quyền. Mặt khác, phòng – thông qua đại diện là LĐQL cấp phòng sẽ trực tiếp dự thảo các đề án, dự án, chương trình, kế hoạch, văn bản hướng dẫn,… để tổ chức hoạt động, phát triển ngành và lĩnh vực cho cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành (có thể là gián tiếp cũng có thể là trực tiếp). Do đó, hoạt động tham mưu của LĐQL cấp phòng có vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành, lĩnh vực mà phòng trực thuộc.

– Đối với cơ quan, tổ chức: quản lý nội bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, sự tham mưu của LĐQL cấp phòng được thể hiện ở rất nhiều các phương diện. Chính điều này đã khẳng định được vai trò quan trọng trong hoạt động tham mưu của LĐQL cấp phòng. Các phương diện tham mưu chính đối với sự quản lý nội bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đó là:

(1) Tham mưu xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị; tham mưu kiện toàn, tổ chức bộ máy của cơ quan, tổ chức, đơn vị; tham mưu kiện toàn và phát triển đội ngũ nhân sự  của cơ quan, tổ chức, đơn vị; tham mưu kiện toàn cơ chế hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

(2) Tham mưu trong công tác xây dựng chương trình kế hoạch của cơ quan, đơn vị; thường xuyên theo dõi việc thực hiện các chương trình công tác của cơ quan, đơn vị thông qua các báo cáo định kỳ, các báo cáo của các đoàn kiểm tra, kiểm soát.

(3) Tham mưu cho lãnh đạo cơ quan, đơn vị ban hành các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ, đôn đốc các bộ phận thực hiện đúng kế hoạch; các trường hợp vướng mắc tham mưu kịp thời cho lãnh đạo có biện pháp xử lý kịp thời, dự liệu các vấn đề có thể xảy ra có các giải pháp phù hợp tránh bị động khi sự việc xảy ra.

(4) Thiết lập cơ chế quản lý điều hành, phản hồi thông tin giữa các cấp quản lý; nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện quy trình thủ tục, biểu mẫu phục vụ quản lý điều hành nội bộ; tổ chức phổ biến hướng dẫn, giám sát đơn vị thực hiện theo đúng hệ thống đã thiết lập; tham mưu trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động và công tác như quy chế làm việc, quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế văn hóa công sở, nội quy cơ quan…

(5) Tham mưu về kiểm tra đánh giá kết quả, phát hiện xử lý tình huống; tham mưu để xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát hoạt động của cơ quan, đơn vị.

(6) Tham mưu kiện toàn và phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

– Đối với sự phát triển của cá nhân LĐQL cấp phòng: chất lượng công tác tham mưu của LĐQL cấp phòng đem lại uy tín, xây dựng hình ảnh cho phòng và cho cả LĐQL cấp phòng. Chính vì vậy, nếu có kỹ năng tham mưu tốt sẽ thuận lợi cho công việc của LĐQL cấp phòng và đem lại uy tín, quyền lực cá nhân cho chính LĐQL cấp phòng.

Như vậy, tham mưu thuộc về trách nhiệm của LĐQL cấp phòng, có trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến lĩnh vực được giao phụ trách cho cấp trên, bao gồm: LĐQL cấp phòng có trách nhiệm giúp cấp trên tổng kết, đánh giá, phân tích tình hình và tìm ra các nguyên nhân của vấn đề; đề xuất những ý tưởng, ý kiến, phương hướng, kế hoạch, biện pháp hữu dụng với cấp trên; phát hiện và chỉ ra những hạn chế, rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra để cấp trên có biện pháp ứng phó và giải quyết…

Những khó khăn, thách thức đối với công tác tham mưu của lãnh đạo, quản lý cấp phòng hiện nay

Tham mưu là công tác mang tính sáng tạo, không chỉ đòi hỏi “tầm” của người tham mưu còn đòi hỏi “tầm” của người lựa chọn tham mưu và sử dụng tham mưu. Ngoài ra, tham mưu cần bảo đảm tính kỷ cương hành chính, sự kế thừa, tính phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước, khu vực, vùng miền, bối cảnh của cơ quan, tổ chức… Chính vì vậy, bản thân CTTM là một loại công tác đòi hỏi nhiều yêu cầu và tuân thủ nhiều nguyên tắc.

Một là, trong thực tiễn hiện nay, các cơ quan, đơn vị thường đặt bộ phận tham mưu tại văn phòng để giúp cho công tác này được thuận lợi. Khi có ý kiến tham mưu, văn phòng phải tổng hợp các thông tin bên trong và bên ngoài, phân tích, quản lý sử dụng các thông tin đó theo những nguyên tắc trình tự nhất định. Ngoài bộ phận tham mưu tại văn phòng còn có các bộ phận nghiệp vụ cụ thể làm tham mưu cho lãnh đạo từng vấn đề mang tính chuyên sâu như công nghệ, chuyên môn, đổi mới lề lối làm việc, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức, chương trình kế hoạch, tài chính, kế toán… Vì vậy, CTTM tận dụng khả năng của các chuyên gia ở từng lĩnh vực chuyên môn.

CTTM chủ yếu xuất phát từ vướng mắc trong quá trình giải quyết công việc, do đó, cần phải bám sát tình hình thực tế, tham mưu cho lãnh đạo thực hiện được công việc tốt hơn. Theo đó, đòi hỏi những người tham mưu phải có tầm nhất định để đặt mình vào vị trí người có thẩm quyền để xử lý các vấn đề. Tuy nhiên, hiện nay, CTTM còn nhiều khó khăn, thách thức, trước hết là phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, vẫn còn có những cán bộ, công chức, viên chức không đủ tầm để có thể đưa ra những dự báo, những đề xuất có hiệu quả, dẫn đến quá trình phản hồi thông tin từ cấp dưới lên cấp trên, từ cá nhân thực thi lên người LĐQL của cơ quan, tổ chức là rất chậm, hạn chế, làm cho cấp trên không kịp thời phát hiện được những bất cập nảy sinh trong tổ chức thực thi công việc để có biện pháp chỉ đạo sửa đổi kịp thời, làm hiệu quả công việc bị ảnh hưởng.

Hai là, những khó khăn, thách thức thuộc về điều kiện thực hiện các sản phẩm tham mưu. Nhiều tham mưu có giá trị và được người có thẩm quyền lựa chọn, song thực tế điều kiện nguồn lực (nhân lực, vật lực,…) không đủ đáp ứng việc thực hiện trong thực tế. Điều đó sẽ trở thành những khó khăn, thách thức lớn đối với CTTM.

Ba là, những khó khăn, thách thức thuộc về điều kiện hoàn cảnh bên ngoài: sự hội nhập, sự cạnh tranh luôn là những khó khăn, thách thức đối với mọi hoạt động quản lý nhà nước chứ không chỉ riêng đối với CTTM, trong đó phải bám sát điều kiện hoàn cảnh của đất nước, vùng miền, điều kiện của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Điều này dẫn đến sự khó khăn cho những ý kiến đề xuất và sự khó khăn cho người ra quyết định. Có những quyết định là sự phù hợp với xu thế phát triển nhưng lại không phù hợp với điều kiện cụ thể ở một số địa phương…

Một số giải pháp đối với công tác tham mưu của lãnh đạo, quản lý cấp phòng

Để CTTM của LĐQL cấp phòng hoạt động có hiệu quả, trong giai đoạn tới cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây:

Thứ nhất, CTTM phụ thuộc rất lớn vào trách nhiệm và bản lĩnh của người làm CTTM và người có thẩm quyền ra quyết định lựa chọn tham mưu. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về tầm quan trọng của CTTM đối với chất lượng công việc và hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức. Đồng thời, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức về trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của tập thể đối với CTTM.

Thứ hai, CTTM dựa vào trình độ, năng lực của người làm CTTM và tầm nhìn của người ra quyết định, do đó, cần thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, tầm nhìn, phẩm chất và bản lĩnh chính trị; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ ba, cần tạo điều kiện về cơ chế cho hoạt động tham mưu ở các cấp, cơ quan, tổ chức, đơn vị để thuận lợi hơn cho CTTM. Trong xây dựng thể chế, xây dựng quy chế, quy định cần chú trọng ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân, tổ chức, đơn vị đối với CTTM. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện các tiêu chí đánh giá, phân loại khen thưởng kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức có liên quan đến hoạt động tham mưu trong thực thi công việc.

Thứ tư, đối với những tham mưu có giá trị, cần được tạo điều kiện về thẩm quyền, về cơ sở vật chất… để những tham mưu đó được thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tế. Mỗi cơ quan, tổ chức,  đơn vị, cá nhân cần nhận thức đầy đủ những khó khăn, thách thức của CTTM để có thể có được sự lựa chọn các giải pháp phù hợp cho CTTM của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân mình nhằm góp phần phát triển ngành, lĩnh vực, đất nước.

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước đang phát triển mạnh trong sự hội nhập quốc tế sâu, rộng; ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật và công nghệ có tác động rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội thì đội ngũ LĐQL các cấp cần ý thức sâu sắc về hiệu quả công việc của từng mặt công tác. Đối với lãnh đạo cấp phòng, CTTM là rất quan trọng. Vì vậy, LĐQL cấp phòng cần chú ý đến chất lượng của hoạt động tham mưu như: tham mưu những vấn đề đúng chức trách được giao; tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành; các ý kiến tham mưu phải dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn; tham mưu phải hướng tới mục đích mang lại lợi ích cho cơ quan, tổ chức; tham mưu phải khách quan và trung thực, kịp thời.

Ngoài ra, để có thể tham mưu, LĐQP cấp phòng còn phải  phát hiện và lựa chọn được những vấn đề cần tham mưu; lựa chọn thời gian và địa điểm phù hợp để tham mưu; lựa chọn hình thức tham mưu (bằng lời, bằng văn bản); sử dụng các phương pháp tham mưu phù hợp; dự kiến được các khả năng và phản ứng của lãnh đạo để thuyết phục lãnh đạo.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

2. Luật Viên chức năm 2010.
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
4. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
5. Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 của Chính phủ quy định về cơ quan thuộc Chính phủ.
6. Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
7. Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư.
TS. Phạm Thị Hồng Thắm
Học viện Hành chính Quốc gia