Hoàn thiện chính sách tiền lương và giáo dục tính liêm chính, trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chức

(Quanlynhanuoc.vn) – Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi cao về đạo đức công vụ nhằm tăng cường tính trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả để thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam ngày càng sâu rộng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Rõ ràng, tăng cường pháp luật về đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang trở thành một đòi hỏi bức thiết không chỉ của nền hành chính quốc gia mà còn là nhu cầu của toàn xã hội.

 

Tham khảo ý kiến của người dân về chất lượng phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của thị trấn Bình Liêu, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh (Ảnh: baoquangninh.com.vn
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) ở Việt Nam là một tất yếu khách quan vì nó đáp ứng yêu cầu thực tiễn to lớn của đời sống là quản lý nền kinh tế thị trường phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng của người dân về tự do, công bằng, dân chủ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là tất yếu khách quan

Xây dựng NNPQ ở Việt Nam hiện nay dựa trên những quan điểm cơ bản: giữ vững bản chất của dân, do dân, vì dân của Nhà nước ta; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm sớm có một hệ thống pháp luật hoàn thiện; cải cách bộ máy nhà nước theo hướng bảo đảm sự độc lập của các cơ quan tư pháp; giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của người dân và cán bộ, công chức (CBCC), từng bước hình thành nền văn hóa pháp lý tiến bộ, nhân văn…

Tuy nhiên, những quan điểm đúng đắn này được nhận thức và thực thi bởi những con người cụ thể. Do đó, hoạt động của CBCC, viên chức khi thi hành nhiệm vụ phản ánh diện mạo của nền công vụ. Đạo đức, tinh thần trách nhiệm của họ trong thực thi công vụ là nhân tố quyết định chất lượng hoạt động công vụ.

Vì vậy, đạo đức công vụ (ĐĐCV) chính là một trong những nhân tố quyết định việc xây dựng thành công NNPQ thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ý thức được vấn đề này, pháp luật thực định nước ta đã cụ thể hóa các chuẩn mực ĐĐCV với nhiều quy định chi tiết. Tuy nhiên, những quy định này còn tản mạn, chưa tập trung nên còn chưa đầy đủ, thiếu tính hệ thống.

Trên thực tế, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm hiện thực hóa các quy định nói trên, hướng tới việc xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực, đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, về đạo đức của đội ngũ CBCC nói chung, ĐĐCV nói riêng ở nước ta vẫn còn nhiều điểm hạn chế, như: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”2. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề pháp luật về ĐĐCV trong NNPQ Việt Nam không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn.

Một là, trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, việc đề cao giá trị của Hiến pháp, luật được coi là vấn đề mang tính nguyên tắc, bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật trong đời sống xã hội. Việc xây dựng pháp luật về đạo đức công chức sẽ đáp ứng được yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta. Đồng thời, từng bước hình thành hệ thống pháp luật bao quát toàn diện và đồng bộ các khía cạnh của đạo đức công chức, điều chỉnh các hành vi và các mối quan hệ của công chức trong thực thi công vụ.

Hai là, xây dựng pháp luật về ĐĐCV sẽ góp phần cụ thể hóa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của người công chức; quy định cụ thể những điều công chức được, không được và không nên làm. Xác định rõ những tiêu chuẩn về phẩm hạnh, đạo đức của người công chức làm căn cứ để khen thưởng hoặc kỷ luật công chức. Pháp luật về đạo đức cũng góp phần đáp ứng đòi hỏi xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của CBCC. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và xây dựng pháp luật về ĐĐCV đòi hỏi phải rà soát, kiện toàn hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để chủ động phòng ngừa, giảm thiểu tham nhũng, tiêu cực; xác định rõ trách nhiệm của mỗi công chức, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc để xảy ra tiêu cực, tham nhũng.

Ba là, pháp luật về ĐĐCV sẽ góp phần xây dựng đội ngũ CBCC không những có năng lực chuyên môn cao, mà còn phải có phẩm chất đạo đức tốt. Đó là nhân tố quyết định việc thực hiện thành công công cuộc cải cách hành chính nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân.

Bốn là, xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi cao hơn về ĐĐCV nhằm tăng cường tính trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả để thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam ngày càng sâu hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Rõ ràng, tăng cường pháp luật về ĐĐCV trong NNPQ Việt Nam đang trở thành một đòi hỏi bức thiết không chỉ của nền hành chính quốc gia, mà còn là nhu cầu của toàn xã hội.

Pháp luật về ĐĐCV có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ công chức có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Những năm qua, pháp luật về ĐĐCV đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú ý cả trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, Luật CBCC năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) có những bước kế thừa và phát triển các quy định pháp luật về đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về đạo đức công vụ

Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về ĐĐCV, có thể thấy pháp luật về ĐĐCV của Việt Nam ngày một hoàn thiện. Cụ thể:

Về tính toàn diện, đồng bộ của hệ thống pháp luật

Pháp luật về ĐĐCV đã được hoàn thiện ngày càng rõ rệt, số lượng quy phạm pháp luật về ĐĐCV được ban hành nhiều hơn, cụ thể hóa những quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp về xây dựng đội ngũ công chức Việt Nam. Lần đầu tiên trên cơ sở quy định của Hiến pháp về ĐĐCV được quy định ở cấp độ Luật mà các giai đoạn trước chưa đạt được.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về ĐĐCV. Trong đó, Luật dành nhiều khoản quy định về: quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy định những việc CBCC không được làm; quy định về việc tặng quà và nhận quà tặng…

Luật CBCC năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 được ban hành, lần đầu tiên các quy định về ĐĐCV được quy định ở cấp độ Luật và thay thế cho các quy định trong Pháp lệnh CBCC. Việc tách các quy định pháp luật điều chỉnh riêng đội ngũ viên chức với các quy định điều chỉnh đội ngũ công chức là một trong những bước tiến trong quá trình hoàn thiện chế độ về công chức, công vụ ở nước ta giai đoạn hiện nay.

Chính phủ, các bộ, ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn đều ban hành các quy định khá đồng bộ về quy tắc ứng xử đối với CBCC, viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về ĐĐCV.

Về nội dung các quy định pháp luật về ĐĐCV đã bước đầu bao quát được các yêu cầu chuẩn mực đạo đức đối với công chức; điều chỉnh hành vi công chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội trong hoạt động công vụ, phục vụ hoạt động công vụ cần thiết phải được quy định cụ thể, bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc về chuẩn mực ĐĐCV, như: công chức phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; các quy định ngăn cấm không được thực hiện; các nghĩa vụ phải thực hiện về ĐĐCV; chịu trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm ĐĐCV; được khen thưởng, tôn vinh…

Như vậy, pháp luật về ĐĐCV đã được hoàn thiện ngày càng rõ rệt, song vẫn còn có những điểm hạn chế. Cụ thể:

(1) Hệ thống pháp luật hiện hành chưa bao quát hết các vấn đề đang gây nhức nhối trong dư luận liên quan đến công chức, như: tình trạng thân quen trong tuyển dụng, bổ nhiệm công chức; việc công chức có nhiều tài sản đứng sau tên những người trong gia đình; tiêu cực trong bổ nhiệm công chức lãnh đạo; vấn đề xây dựng văn hóa từ chức của công chức; các hành vi tham nhũng liên quan đến quản lý tài sản công, đặc biệt là đất đai; tình trạng cấu kết lợi ích nhóm, chạy chức, chạy quyền……

(2) Việc ban hành các văn bản pháp luật chưa đồng bộ; không kịp thời. Chẳng hạn, Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa ra quy định chung về quy tắc ứng xử của CBCC, viên chức, quy định về những việc CBCC, viên chức không được làm và quy định về việc tặng quà, nhận quà của CBCC nhằm bảo đảm tính liêm chính trong hoạt động công vụ của công chức. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể lại giao quyền cho Chính phủ, các bộ, ngành quy định chi tiết thực hiện. Do vậy, mặc dù Luật đã được ban hành song vẫn chưa đi vào thực tế cuộc sống.

(3) Thực trạng pháp luật về ĐĐCV cho thấy, ngoài những quy định chung mang tính nguyên tắc được quy định trong Luật CBCC, Luật Phòng, chống tham nhũng và một số văn bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc quản lý đội ngũ công chức thuộc quyền nhưng hầu hết các quy định của pháp luật về ĐĐCV hiện hành đều được quy định tại các văn bản dưới luật, cụ thể là quy tắc ứng xử của CBCC, viên chức ban hành kèm theo quyết định của cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Việc ban hành quy tắc ứng xử của công chức của các cơ quan từ trung ương tới địa phương những năm qua có sự vận dụng rất khác nhau trên cơ sở triển khai thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng.

Tính phù hợp của pháp luật về ĐĐCV

Về cơ bản, hệ thống pháp luật về ĐĐCV đã phản ánh sự tương quan với trình độ phát triển kinh tế – xã hội và thực tiễn phát triển nền công vụ của đất nước. Trong quá trình cải cách hành chính nhà nước, trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và đội ngũ công chức, hệ thống pháp luật về đạo đức công chức không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Từ chỗ trước năm 2005, để điều chỉnh hành vi của công chức chỉ có Pháp lệnh về CBCC năm 1998; từ năm 2005 đến nay, một loạt các văn bản liên quan đến đạo đức công chức đã được ban hành và từng bước hoàn thiện, như: Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013; Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018; Luật CBCC năm 2008…

Hệ thống pháp luật về ĐĐCV đã kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc, với thuần phong mỹ tục của đất nước, tạo điều kiện cho việc thực hiện pháp luật trên cơ sở tự giác của người công chức. Phương pháp điều chỉnh pháp luật được sử dụng phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội.

Pháp luật về ĐĐCV vẫn còn những điểm bất cập, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật với thực tiễn hiện hành. Chẳng hạn, như: các quy định liên quan đến giáo dục đào tạo ĐĐCV chậm đổi mới; các quy định của pháp luật về đánh giá công chức chưa bảo đảm (các tiêu chí đánh giá công chức nhằm xác định được năng lực để đề bạt, bổ nhiệm, kỷ luật chưa được đề cập đến; thiếu các quy định cụ thể về việc bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với Nhân dân…); quy định hiện hành về ĐĐCV chưa được xem xét và điều chỉnh phù hợp trong mối quan hệ với chế độ đãi ngộ, đặc biệt là tiền lương…

Về tính khả thi của pháp luật về ĐĐCV

Trong những năm qua, các quy định pháp luật về ĐĐCV đã được triển khai trên thực tế trong nhiều lĩnh vực và thể hiện những tác động tích cực, như: góp phần khẳng định những giá trị đạo đức tốt đẹp của công chức khi thực thi công vụ; xác định rõ những điều không được làm đối với công chức; các quy định cụ thể về thái độ ứng xử của công chức trong công vụ, các hành vi tham nhũng, lãng phí và các biện pháp phòng ngừa, xử lý đã góp phần hạn chế các hành vi tiêu cực của công chức ở một mức độ nhất định… Các quy định này tạo nên cơ sở pháp lý để các thành viên bên trong mỗi tổ chức, người dân và các cơ quan chức năng về kiểm tra, thanh tra, các cơ quan tư pháp có thể phát hiện và xử lý những cá nhân có hành vi sai phạm.

Tuy vậy, một số quy định pháp luật về ĐĐCV còn chung chung, chưa được cụ thể hóa để bảo đảm hiệu lực thực thi. Các quy định pháp luật về ĐĐCV còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc. Đặc biệt, chưa khắc phục được việc tặng, nhận quà đối với người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến công vụ. Cơ chế đánh giá công chức chưa hợp lý, việc khen thưởng và kỷ luật công chức chưa chính xác và chưa tương xứng.

 Hoàn thiện pháp luật về đạo đức công vụ

Một là, cần có chính sách tiền lương, phụ cấp, đãi ngộ một cách hợp lý để công chức yên tâm phục vụ dựa trên nguyên tắc về sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.  Do đó, “Muốn cho công chức làm việc tốt thì phải có tiền lương tốt, trước hết đủ sống. Nhà nước phải tạo môi trường cho họ cống hiến và có cơ hội thăng tiến về học thức, kinh tế… Nếu không thay đổi cơ chế đãi ngộ, không xoá bỏ sự quá cách biệt giữa lĩnh vực công và tư thì Nhà nước tiếp tục mất nhiều công chức”3.

Cải cách tiền lương cần tiến hành theo các hướng: (1) Đổi mới các thành tố của hệ thống chính sách tiền lương đối với CBCC. Hoàn thiện hệ thống thang lương, bảng lương trên cơ sở xem xét tính chất, đặc điểm lao động và phân loại từng đối tượng CBCC. (2) Hoàn thiện phương thức quản lý tiền lương CBCC trên cơ sở tách rõ cơ quan hành chính công quyền với các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công để có cơ chế tài chính và cơ chế quản lý tiền lương phù hợp. (3) Xác định rõ ưu tiên và bảo đảm nguồn cho cải cách tiền lương CBCC; có lộ trình thích hợp và phải xác định được thứ tự ưu tiên cải cách, trong đó trước mắt cần ưu tiên cải cách chính sách tiền lương của CBCC hành chính nhà nước.

Ngoài việc bảo đảm mức lương thỏa đáng cho công chức mà Nhà nước ấn định cần có sự khuyến khích kịp thời, tương xứng bằng vật chất và tinh thần cho những người thực sự có đóng góp, cống hiến xuất sắc đem lại hiệu quả cao trong công việc.

Hai là, giáo dục tính liêm chính, ĐĐCV đối với CBCC, coi đây là công việc thực sự quan trọng. Bởi lẽ, bất kỳ công việc nào cũng đòi hỏi phải có những chuẩn mực nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp, nhất là đối với hoạt động công vụ luôn gắn liền với quyền lực công, nguồn lực công, trách nhiệm công,… Việc giáo dục ĐĐCV phải được thực hiện ở các cấp để hình thành thói quen, ngấm sâu vào nhận thức của mỗi cá nhân trước khi tham gia nền công vụ.

Nhà nước cần đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc đối với CBCC những nội dung giáo dục tính liêm chính và trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp. Biện pháp này nhằm tác động vào nhận thức của người CBCC để thay đổi hành vi. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải được xây dựng thành chuyên đề/ môn học bắt buộc trong các chương trình đào tạo ở các bậc học.

Trong công tác giáo dục ĐĐCV, cần coi trọng giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, lòng vị tha, khoan dung, tình thương yêu con người, bổn phận, lương tâm, trách nhiệm,… Đặc biệt, chú ý giáo dục tinh thần: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trong đó giá trị cốt lõi là liêm, chính. Giáo dục đạo đức cho công chức chủ yếu tập trung giáo dục về các chuẩn mực và quy tắc luật pháp, hành vi đạo đức trong thực thi công vụ phục vụ nhân dân, đề cao các giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của công chức; khuyến khích và tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc, dân tộc của công chức; khắc phục thói vô cảm, ích kỷ, vụ lợi trong thực thi công vụ, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.

Ba là, tăng cường tuyên truyền giá trị ĐĐCV trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các giá trị ĐĐCV cơ bản bao gồm sự tôn trọng quyền con người, đề cao vai trò của sự chuyên cần, tinh thần kỷ luật, tính trung thực, trách nhiệm, liêm, chính, phát huy cao độ ý thức tự giác và sự công bằng. Các tiêu chí về giá trị, chuẩn ĐĐCV cần được phổ biến sâu rộng trên mọi phương tiện thông tin đại chúng để mọi người hiểu rõ ý nghĩa, vai trò và chuẩn mực của những giá trị nhân văn, thấy rõ đây là nhân tố không thể thiếu trong nền hành chính hiện đại, dân chủ. Khi những giá trị này thấm nhuần, lan tỏa trong xã hội, công luận, dư luận sẽ trở thành áp lực tốt để người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước tự trau dồi đạo đức, thực hiện trách nhiệm hướng đến phong cách dân chủ, mang tính chất phục vụ Nhân dân.

Chú thích:
1. Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
2. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
3. Nhiều người tài khởi xướng xu hướng từ bỏ công sở. Vnexpress.net, ngày 30/01/2008.

Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 2013.

2. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013.
3. Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
4. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

TS. Nguyễn Tiến Hiệp
 Học viện Hành chính Quốc gia