Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Sau 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam từng bước phát triển, tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được đổi mới. Với những kết quả đạt được, có thể khẳng định, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương đúng đắn của Đảng ta và đây là cơ sở quan trọng để thực hiện thành công mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam thời gian qua

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB), C. Mác đã dự báo về xã hội tương lai trên những nét đại thể. C. Mác cho rằng, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội, dẫn đến phá vỡ trật tự, kết cấu của quan hệ sản xuất tư bản, mở đường, xác lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất để thúc đẩy một phương thức sản xuất mới ra đời. C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở giai đoạn cao, lúc đó, nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) cũng không còn tồn tại1. V.I.Lênin cũng cho rằng: chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí và nếu không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại… thì không thể nói đến CNXH được. Tuy nhiên, trước khi không còn cơ sở tồn tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường (KTTT) lại cần thiết cho quá trình xây dựng thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa2.

Đại hội VII (tháng 6/1991) khẳng định những thành tựu trong phát triển KTTT ở nước ta bước đầu đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời, Đại hội khẳng định, mục tiêu phát triển KTTT chính là để xây dựng CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam được Đại hội VII thông qua đã thể hiện rõ điều đó: “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”3.

Tuy nhiên, dù đã có quan điểm manh nha về KTTT từ Đại hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thì phải đến Đại hội IX, thuật ngữ “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng4. Đến Đại hội X của Đảng (năm 2006), 5 thành phần kinh tế được xác lập trong nền kinh tế nước ta, gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”5.

Đặc biệt, Đại hội XII của Đảng đã có những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt Nam, đó là: nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…

Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, phát triển nền KTTT định hướng XHCN, trong phần định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 nêu rõ: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”6.

Những kết quả tích cực và những vấn đề đặt ra

Nhìn lại 35 năm đổi mới, có thể thấy, những sự đổi mới tư duy sáng suốt của Đảng ta đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu: tăng trưởng kinh tế, vị thế của đất nước trên thương trường ngày càng cao, từ một đất nước thiếu lương thực nay trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới… Tuy nhiên, bên cạnh việc đánh giá những kết quả trong chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN, Đảng ta cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế, như: việc xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta thực hiện còn chậm; một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.

Cải cách hành chính còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường…

Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của KTTT và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm… Giữa nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện, vận dụng học thuyết kinh tế Mác – Lênin ở nước ta vẫn còn khoảng cách, như việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; thực hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tăng trưởng kinh tế gắn kết với tiến bộ và công bằng xã hội… trên thực tế còn nhiều bất cập…

Một số mục tiêu và định hướng để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết số 11-NQ/TW đề ra mục tiêu: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, sẽ hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Trước những xu thế mới của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với sự bùng nổ, phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan tâm một số vấn đề sau:

Một là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Hai là, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền KTTT hiện đại, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để hạn chế các mặt tiêu cực của nền KTTT cũng như những tác động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về cách thức và phương thức mới theo hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn, trong thời gian tới, cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế – xã hội. Cụ thể, cần tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế – xã hội. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng về kinh tế – xã hội. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN…

Ba là, để có một nền KTTT định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi phải có môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng và hiệu quả. Theo đó, đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế; thực hiện đúng đắn và đầy đủ chức năng của Nhà nước trong nền KTTT. Tiếp tục rà soát, cơ cấu lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là các hoạt động hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp…

Bốn là, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp.

Nền KTTT không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên thị trường. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp. Theo đó, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Mở rộng thu thập ý kiến đánh giá từ doanh nghiệp và người dân đối với quá trình triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trường…

Chú thích:
1, 2. V.I.Lênin. Toàn tập. Tập 33. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 118, 125.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, mục 4, phần II).
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, 1987, tr. 86.
5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 2. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 328.
Trần Thị Hương
Trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp