Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) Hiến pháp năm 2013 chính thức ghi nhận thành nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và hình thành cơ sở Hiến định cho việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, ở nước ta cần phải từng bước xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ để triển khai công việc của Chính phủ ngày 15/4/2021. Ảnh: TTXVN.
Đặt vấn đề

Vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN) là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Theo đó, cơ chế KSQLNN phải là một tổng thể bao gồm: cơ chế KSQLNN từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện; cơ chế KSQLNN bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; và cơ chế KSQLNN một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định.

Đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước

(1) Cơ chế KSQLNN giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (hay nói một cách dễ hiểu là cơ chế KSQLNN bên trong mỗi quyền và giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau).

Về quyền lập pháp. Sau Hiến pháp năm 2013, hoạt động KSQLNN của Quốc hội bằng hình thức giám sát đối với hành pháp và tư pháp được tăng cường. Tuy nhiên, KSQLNN bằng phương thức giám sát tối cao của Quốc hội cũng còn những hạn chế sau đây: giám sát tối cao của Quốc hội là một phương thức KSQLNN mang tính chính trị pháp lý ở tầm vĩ mô, tầm quốc gia đối với các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn, nhưng cả về đối tượng cũng như nội dung giám sát còn dàn trải, chưa đi sâu giám sát đối với một cơ quan hay một cá nhân do Quốc hội thành lập hay bầu hoặc phê chuẩn. Ví dụ, tập trung giám sát một bộ hoặc một bộ trưởng là cơ quan do Quốc hội thành lập và cá nhân do Quốc hội phê chuẩn. Và vì coi trọng giám sát tối cao theo chiều rộng nên chất vấn tại nghị trường với tư cách là một phương thức KSQLNN mà chưa đưa đến một trách nhiệm chính trị – pháp lý cụ thể đối với một cơ quan hay cá nhân nào.

Hiện nay chưa hình thành cơ chế kiểm soát ngược lại từ phía quyền hành pháp và quyền tư pháp đối với quyền lập pháp. Trong bản thân quyền lập pháp cũng phải hình thành cơ chế tự kiểm soát để bảo đảm cho việc thực hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp cũng như thực hiện quyền giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước đúng Hiến pháp và luật. Ngoài Ủy ban Pháp luật với nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp của các dự án luật trước khi Quốc hội xem xét thông qua, chưa hình thành cơ chế trong bản thân Quốc hội để tự kiểm soát hoạt động, bảo đảm hoạt động của Quốc hội phù hợp với Hiến pháp. Vì thế, quyền lập pháp còn nằm ngoài cơ chế KSQLNN.

Về quyền hành pháp. Ngoài giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp còn chịu sự kiểm soát của quyền tư pháp bằng việc xét xử các quyết định hành chính và hành vi hành chính. Bên trong quyền hành pháp đã hình thành cơ chế cơ quan cấp trên kiểm tra cơ quan cấp dưới và cơ chế thanh tra, kiểm tra nội bộ. Tuy nhiên, các cơ chế này hình thành trong mô hình nhà nước hành chính quan liêu bao cấp nên không hoàn toàn là một cơ chế KSQLNN mà chủ yếu là cơ chế quản lý nhà nước, phục vụ cho quản lý nhà nước. Thanh tra Chính phủ, thanh tra của các cơ quan quản lý chuyên ngành là những thiết chế phụ thuộc vào thủ trưởng quản lý nhà nước, chưa phải là một thiết chế kiểm soát quyền hành pháp theo đúng nghĩa; các kết luận thanh tra chủ yếu và trước hết phục vụ cho người quản lý nhà nước và người ra quyết định thanh tra. Chính vì thế, cơ chế tự kiểm soát quyền lực bên trong quyền hành pháp chưa thực sự phát huy hiệu quả với tư cách là một cơ chế KSQLNN.

Quyền hành pháp theo các quy định pháp luật hiện hành dường như không có quyền kiểm soát quyền lập pháp và quyền tư pháp. Luật Tổ chức Chính phủ chưa quy định quyền kiểm soát việc thực hiện hành pháp trong hoạt động lập pháp và tư pháp. Vì thế, các hoạt động công vụ, công chức mang tính hành pháp trong thực hiện quyền lập pháp; quyền tư pháp còn nằm ngoài sự kiểm soát của quyền hành pháp.

Về quyền tư pháp. Đối với việc thực hiện quyền tư pháp thì việc kiểm soát của Nhân dân giữ vai trò quan trọng hơn là giữa các quyền kiểm soát lẫn nhau. Thông qua các chế định về xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc tranh tụng, xét xử có hội thẩm nhân dân, quyền được bào chữa của bị can, bị cáo, đương sự,… mà kiểm soát hoạt động của quyền tư pháp. Tuy nhiên, vì ý thức pháp luật của Nhân dân còn hạn chế, nên việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án chưa thực sự bảo đảm. Theo đó, Nhân dân với tư cách là các công dân chưa thể kiểm soát được việc thực hiện quyền tư pháp trong quan hệ tố tụng, tư pháp.

Việc thực hiện quyền tư pháp còn được kiểm soát bằng sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) vào Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quốc gia; Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Quyền tư pháp còn được kiểm soát bởi quyền lập pháp bằng việc xem xét báo cáo của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong tổ chức và hoạt động của quyền tư pháp thì nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc nền tảng, xuyên suốt. Vì thế, so với các nước dân chủ và pháp quyền thì các quy định về kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp như nêu trên là phù hợp. Vấn đề quan trọng là thực hiện các phương thức kiểm soát nói trên sao cho thực chất. Nhất là bảo đảm nguyên tắc tư pháp độc lập được thực hiện một cách nghiêm túc. Ở Việt Nam, quyền tư pháp chỉ dừng lại kiểm soát quyền hành pháp thông qua việc xét xử các quyết định hành chính và hành vi hành chính khi tổ chức hay công dân khởi kiện ra tòa mà chưa có quyền tài phán các văn bản pháp quy khi công dân hay tổ chức cho rằng, văn bản quy phạm pháp luật đó trái với Hiến pháp, luật của Quốc hội như các nước.

Ở nước ta, cũng chưa ra đời cơ chế bảo hiến độc lập (Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Bảo hiến) nên chưa có điều kiện tài phán các hành vi vi hiến của cơ quan, cá nhân cao nhất trong bộ máy nhà nước và giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực.

Chẳng hạn như, vấn đề kiểm soát quyền lực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một công việc khó khăn, phức tạp bởi đây là công việc đấu tranh phòng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước của những người có chức vụ trong bộ máy nhà nước và trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt và khó khăn hơn là đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối với những người có chức danh trong các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử, bởi công việc chống tham nhũng đối với những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chống tham nhũng. Vì vậy, xây dựng được cơ chế hữu hiệu KSQLNN của người có chức danh tư pháp trong các cơ quan trực tiếp có nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng có vai trò đặc biệt quan trọng. Việc thực hiện quyền của các chức danh tư pháp ở nước ta tuy không bị các quyền lập pháp, hành pháp và chưa bị các tổ chức tội phạm tác động, chi phối nhưng việc thực hiện quyền của những người này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói riêng chưa thực sự độc lập.

Việc can thiệp từ bên trong cũng như bên ngoài vào các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vẫn còn xảy ra. Trong các vụ án dân sự, kinh tế tác động từ lợi ích tư còn xảy ra khá nhiều. Pháp luật về kinh tế, dân sự lại chưa thực sự đầy đủ và chặt chẽ. Do đó, trong xét xử các vụ án dân sự, việc lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để nhũng nhiễu tiêu cực, tham nhũng vẫn còn xảy ra gây tốn kém công sức và tiền bạc cho các bên tranh tụng. Có vụ tranh chấp dân sự hết sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi lại quay lại sơ thẩm, phúc thẩm,… kéo dài hơn chục năm mà vẫn chưa có bản án có hiệu lực pháp luật. Tư pháp dân sự tuy đã có sự quan tâm trong chủ trương chung về cải cách tư pháp, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia vẫn còn là khâu yếu với nhiều bất cập trong áp dụng pháp luật về nội dung của tòa án. Bộ luật Dân sự và pháp luật về kinh tế vẫn còn tồn tại những mẫu thuẫn, chồng chéo cản trở hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp tại tòa. Pháp luật về tố tụng dân sự như: các quy định về biện pháp áp dụng khẩn cấp tạm thời; về phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp,… còn nhiều bất cập.

Trong mối quan hệ tố tụng giữa 3 cơ quan (điều tra, truy tố và xét xử) thì nặng về phối hợp mà xem nhẹ sự chế ước (kiểm soát) lẫn nhau. Trong nhiều trường hợp, việc thực hiện nguyên tắc chế ước lẫn nhau giữa 3 cơ quan trên bị yếu tố phối hợp chi phối, được ngụy trang bởi đấu tranh chống tội phạm kịp thời, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương là “mảnh đất đẻ ra tiêu cực, tham nhũng trong điều tra, truy tố, xét xử”. Trong đó, cơ chế phản biện, xử lý hành vi tiêu cực của các chức danh tư pháp, như: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chưa thật rõ ràng, minh bạch cả về hình thức, căn cứ, trình tự, thẩm quyền và hậu quả pháp lý. Cơ chế KSQLNN bên trong các cơ quan tòa án, kiểm sát, điều tra chưa đủ mạnh và độc lập. Thanh tra, kiểm tra trong các cơ quan này chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của ngành mình và phụ thuộc vào người đứng đầu cơ quan mà không phải là một cơ chế KSQLNN nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật vì mục đích tiêu cực tham nhũng của các chức danh tư pháp.

(2) Về cơ chế KSQLNN của Nhân dân (chủ thể không phải là Nhà nước)

Theo Điều 9 Hiến pháp năm 2013, MTTQVN có vai trò quan trọng trong việc “Thực hiện dân chủ, tăng cường sự đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội,…”, “Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính thống của nhân dân”. Vì thế, MTTQVN là một chủ thể đại diện cho Nhân dân tham gia KSQLNN.

Đối với thực hiện quyền lập pháp, MTTQVN có chức năng phản biện xã hội đối với các dự án luật trước khi Quốc hội xem xét thông qua. Đây là phương thức kiểm soát trước có tính phòng ngừa nhằm góp phần phòng, chống các lợi ích cục bộ, chủ quan, không phù hợp ý chí nguyện vọng của Nhân dân ẩn chứa trong các dự án luật, góp phần nâng cao chất lượng lập pháp. Sau khi luật được Quốc hội xem xét thông qua, Mặt trận Tổ quốc các cấp lại tiến hành giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật; góp phần KSQLNN trong quá trình thực hiện pháp luật.

Đối với việc thực hiện quyền hành pháp. MTTQVN và các tổ chức thành viên đã tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan dân cử tiến hành giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp; phản biện xã hội các dự thảo văn bản khi có yêu cầu.

Đối với việc thực hiện quyền tư pháp. MTTQVN và các thành viên thực hiện kiểm soát thông qua việc tham gia là thành viên Hội đồng tuyển chọn thẩm phán và các chức danh tư pháp, giới thiệu bầu, cử Hội thẩm Tòa án nhân dân,… Tuy nhiên, giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mới được chính thức thực hiện từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay nên từ nhận thức đến tổ chức thực hiện chưa thật đầy đủ, chưa đều khắp ở mặt trận các cấp và không tránh khỏi còn hình thức, kém hiệu lực, hiệu quả.

Trong cơ chế KSQLNN từ bên ngoài, các phương tiện truyền thông đại chúng kết hợp với công luận có vai trò hết sức quan trọng trong KSQLNN, nhất là trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các cơ quan truyền thông cần tạo lập không khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm để hỗ trợ tích cực hơn nữa cho Nhân dân thực hiện KSQLNN.

Công dân với tư cách cá nhân cũng là một chủ thể của cơ chế KSQLNN từ bên ngoài. Thông qua việc thực hiện các quyền bầu cử; quyền khiếu nại, tố cáo; tham gia quản lý nhà nước;… Hiện nay, do môi trường pháp lý chưa thật đầy đủ nên công dân với tư cách cá nhân chưa phát huy đầy đủ vai trò KSQLNN của mình. Một số quyền công dân cơ bản có vai trò trong KSQLNN chưa được thể chế như: quyền tham gia quản lý nhà nước, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước (Điều 28 Hiến pháp năm 2013).

(3) Về cơ chế KSQLNN độc lập do luật định, tại khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Quy định này cho phép ra đời một thiết chế bảo vệ Hiến pháp do một đạo luật quy định để bảo đảm KSQLNN; bảo vệ Hiến pháp một cách độc lập. Tuy nhiên, đến nay, cơ chế này chưa ra đời. Vì thế, việc KSQLNN đối với các hành vi vi hiến của cơ quan và cá nhân ở tầng cao nhất trong bộ máy nhà nước chưa được đặt ra; người dân mới có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có hành vi hành chính và quyết định hành chính xâm hại. Việc các cơ quan lập pháp hay hành pháp ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà người dân cho rằng trái Hiến pháp, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình chưa được quyền khởi kiện như nhiều nước dân chủ và pháp quyền cho phép.

Định hướng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Thứ nhất, cần sớm xây dựng một đạo luật về tổ chức và hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Nhân dân. Đồng thời, quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện cho công dân và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của công dân thực hiện quyền. Trong điều kiện hệ thống chính trị một Đảng cầm quyền như nước ta, không hình thành được một cơ chế KSQLNN của công dân và các tổ chức đại diện của công dân tham gia giám sát và phản biện một cách thực chất thì khó mà tránh khỏi tình trạng tha hóa quyền lực nhà nước ngày càng trầm trọng.

Thứ hai, phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc KSQLNN. Luật Phòng, chống tham nhũng cần có quy định pháp lý mở rộng, khuyến khích, khen thưởng, tạo môi trường pháp lý, dân chủ, không có vùng cấm trong việc báo chí đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào trong hệ thống chính trị nước ta, nhất là các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước.

Thứ ba, quy định trách nhiệm giải trình của các quan chức đứng đầu tổ chức Đảng, đứng đầu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, chính quyền cấp xã, phường trước cử tri của các tổ dân phố để nghe dân nói, dân phản ánh những biểu hiện tiêu cực ngay tại nơi sinh sống của mình. Chính quyền các cấp của nước ta, nhất là chính quyền cấp cơ sở còn rất xa dân. Trách nhiệm giải trình của các quan chức nhà nước trước dân được rất nhiều nước đề cao trong điều kiện ngày nay và là một giải pháp phản ánh trực tiếp ý nguyện của dân.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong mỗi quyền và kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền

Một là, trước khi giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp kiểm soát lẫn nhau thì việc KSQLNN trong bản thân mỗi quyền là hết sức quan trọng. Bởi không kiểm soát được mình thì đừng nói kiểm soát người khác. Các luật tổ chức (như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương) ban hành sau Hiến pháp năm 2013 chưa có quy định KSQLNN do bản thân tổ chức mình thực hiện. Trong tổ chức và hoạt động lập pháp của Quốc hội cũng cần phải có thiết chế KSQLNN, nhất là kiểm soát hoạt động lập pháp và kiểm soát việc sử dụng ngân sách do chính Quốc hội quyết định cho mình. Hiện nay, tổ chức và hoạt động của Quốc hội chưa có một thiết chế nào kiểm soát.

Thiết chế Thanh tra Chính phủ chưa phải là một thiết KSQLNN bên trong cơ quan hành pháp theo đúng nghĩa mà mới là một thiết chế nặng về phục vụ quản lý nhà nước. Phải tiếp tục hoàn thiện thiết chế thanh tra để giúp Thủ tướng KSQLNN trong nội bộ cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Trong bản thân tổ chức và hoạt động thực hiện quyền tư pháp, cơ chế kiểm soát hoạt động giữa các cấp tòa án cũng chưa đủ mạnh và có hiệu quả. Với nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thì cơ chế kiểm soát hoạt động xét xử ngay bên trong các cấp tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng.

Hai là, cần phải tăng cường vai trò giám sát và thanh tra của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp trên đối với Ủy ban nhân dân cấp dưới. Đồng thời, tăng cường thanh tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Không nên chỉ coi trọng một chiều vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc KSQLNN ở địa phương.

Ba là, tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ bằng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, trong đó tập trung giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước hằng năm được Quốc hội phân bổ cho các bộ là một nội dung giám sát quan trọng hàng đầu. Theo kinh nghiệm của các nước, khi nói đến kiểm soát quyền hành pháp thì trước hết và chủ yếu kiểm soát việc sử dụng ngân sách nhà nước được giao. Ở nước ta, giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội, luật quy định quá rộng, bao gồm cả giám sát văn bản quy phạm pháp luật, trong đó lại không coi trọng giám sát hiệu quả của việc sử dụng ngân sách. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lộng quyền, lạm quyền đều bắt nguồn từ việc sử dụng ngân sách nhà nước lại không được kiểm soát chặt chẽ. Quốc hội cần sử dụng phương tiện kiểm toán nhà nước để kiểm soát việc sử dụng ngân sách nhà nước của các bộ.

Bốn là, cần coi trọng kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức và hoạt động của lập pháp và tư pháp. Bởi trong tổ chức và hoạt động các của quyền lập pháp và quyền tư pháp đều có hoạt động hành chính nhà nước. Tuy nhiên, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 không thể hạn chế quyền kiểm soát của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất đối với hoạt động mang tính chất hành chính nhà nước, như: biên chế công chức, công vụ, mua sắm, công sở,… trong các hoạt động lập pháp và tư pháp khi nói đến KSQLNN của hành pháp đối với lập pháp và tư pháp thì đối tượng kiểm soát là các hoạt động mang tính hành chính nhà nước trong các nhánh quyền lực này.

Năm là, tiếp tục xây dựng cơ chế KSQLNN chuyên trách, Hiến pháp năm 2013 tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định để thực hiện trong thời gian tới.

Kết luận

KSQLNN ở nước ta, một mặt phải bảo đảm phòng, chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả, mặt khác, bảo đảm không vì KSQLNN mà làm mất đi tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của KSQLNN là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Theo đó, cơ chế KSQLNN phải là một tổng thể bao gồm cơ chế KSQLNN từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện; cơ chế KSQLNN bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, phải có cơ chế KSQLNN một cách chuyên trách độc lập do luật quy định.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Hiến pháp năm 2013.
3. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
5. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
6. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
7. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
GS.TS Trần Ngọc Đường
Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội