Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin là chân lý khoa học dựa trên cơ sở khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Ở Việt nam, quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ, sâu sắc hơn về mục tiêu và mô hình chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới.
Ảnh minh họa (tuyengiao.vn).
Đặt vấn đề

Trải qua hơn 92 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc vượt qua khó khăn trở ngại để xây dựng và phát triển đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam không chỉ phát triển dân tộc Việt Nam ngày một tươi sáng mà còn góp phần vào sự phát triển và hòa bình của thế giới. Thắng lợi của quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng CNXH và đổi mới kinh tế thành công ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới trong những thập kỷ qua là thực tiễn sinh động phản ánh bản chất khoa học, cách mạng, tiến bộ và nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay.

Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các hạt nhân tư tưởng trước đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã làm sáng tỏ bản chất của CNXH từ những kiến giải kinh tế – xã hội, chính trị – triết học. Bằng phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử, đặc biệt là học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, C.Mác đã chứng minh tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ được thay thế bằng một hình thái cao hơn, hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là CNXH.

Kế thừa và phát triển lý luận của C.Mác, Lênin đã bổ sung những đặc trưng về CNXH trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã bổ sung và phát triển học thuyết của C.Mác về CNXH cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời, biến những tư tưởng về CNXH với tư cách là một tư tưởng, một nhu cầu và một phong trào trở thành một chế độ xã hội. Sau khi hoàn thiện sẽ là bước phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản.

Từ những mẫu thuẫn đối kháng không thể điều hòa trong chủ nghĩa tư bản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã phác thảo những vấn đề cơ bản thuộc về bản chất của CNXH – giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản như sau:

Một là, từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu XHCN để giải phóng sức sản xuất của xã hội.

Hai là, có một nền công nghiệp đại cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.

Ba là, thực hiện nền sản xuất có kế hoạch, từng bước tiến tới xóa bỏ sản xuất hàng hóa, trao đổi tiền tệ (quan niệm này về sau được điều chỉnh với chính sách kinh tế mới của Lênin).

Bốn là, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.

Năm là, khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp.

Sáu là, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hóa cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện mọi khả năng sẵn có của mình.

Bảy là, sau khi thực hiện được những điều trên, khi sự đối kháng giai cấp không còn nữa thì chức năng chính trị của Nhà nước sẽ dần dần tiêu vong.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Quan niệm về CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nhiều ý nghĩa khác nhau, chủ yếu tập trung vào các nội dung, như: một phong trào lịch sử mang tính chính trị xã hội; hệ tư tưởng của giai cấp công nhân; giai đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa; CNXH và chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội đối lập với chế độ tư bản mà hình thức xấu xa tàn bạo nhất của nó là chủ nghĩa thực dân, bao gồm cả chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới.

Trong các nội dung trên, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến nội dung CNXH và chủ nghĩa cộng sản, Người đem đến nhiều kiến giải rất độc đáo, mộc mạc dễ hiểu mang tính phổ thông đại chúng để mọi tầng lớp nhân dân ta có thể hiểu được, nhận thức đúng để hành động đúng đắn và thiết thực. Một số kiểu định nghĩa thường gặp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, như: CNXH và chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”1. Hay dưới dạng tổng hợp hơn “muốn cho chủ nghĩa Cộng sản thực hiện được cần phải có công nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đưa ra quan niệm trên đây trước năm 1954, khi mà CNXH mới là xu thế tất yếu mà quá trình cách mạng Việt Nam cần đạt tới. Định nghĩa CNXH bằng cách chỉ ra một mặt nào đó về kinh tế, chính trị, văn hóa…, chẳng hạn: “Như vậy chủ nghĩa xã hội là lấy máy, xe lửa, ngân hàng… làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”3. Khi tìm hiểu định nghĩa CNXH của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đặt trong tổng thể quan niệm chung của Người về CNXH, việc tuyệt đối hóa một mặt nào đó dễ đưa đến sai lầm trong hoạt động và chỉ đạo thực tiễn.

Định nghĩa xã hội bằng cách xác định mục tiêu, chỉ rõ phương tiện, phương hướng để đạt được mục tiêu đó. Đây là kiểu định nghĩa phổ biến mà Người thường dùng nhất, như: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”4. Có khi Hồ Chí Minh trả lời một cách trực tiếp về mục đích của CNXH mục đích của CNXH là không ngừng nâng cao mức sống của Nhân dân.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH là sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội với các nhân tố nhân văn, đạo đức, văn hóa. Từ bản chất ưu việt của CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi tới khẳng định tính tất yếu của sự lựa chọn CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ, đổi mới không phải là làm thay đổi mục tiêu XHCN mà là thực hiện mục tiêu đó bằng quan niệm đúng đắn về CNXH với những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Thực hiện lý tưởng trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã chỉ đạo thành lập Tiểu ban nghiên cứu xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, cốt lõi là làm rõ mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mô hình CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô cũ lâm vào khủng hoảng và sụp đổ.

Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã xác định “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”5. Khẳng định đường lối đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH bước đầu đã vạch ra mô hình và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam một cách cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tiễn của đất nước.

Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng nhận định lý luận về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH đã hình thành trên những nét cơ bản. Đặc trưng xã hội XHCN được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”6.

Thực tiễn quá trình lãnh đạo và thực hiện công cuộc đổi mới đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng có những hiểu biết, nhận thức mới về CNXH. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng của CNXH Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”7.

Sáng tạo lý luận quan trọng của Đảng trong phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam ở Đại hội XIII thể hiện qua 3 trụ cột: (1) Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nước; (2) Kinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ, phương tiện giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH; (3) Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu bảo đảm quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Trong quá trình đổi mới, bên cạnh việc xác định rõ bản chất, đặc trưng cốt lõi của CNXH, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là phương thức thực hiện mục tiêu XHCN trong từng giai đoạn phát triển của đất nước phù hợp với các quy luật khách quan. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ nghiêm túc và nhất quán “nguyên tắc pháp quyền”, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội” để tạo lập, dẫn dắt, xây dựng môi trường chính trị, pháp lý, xã hội cho các chủ thể kinh tế – xã hội hoạt động một cách thuận lợi trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo và lợi thế của mình.

Ở Việt Nam, nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được tiến hành trong công cuộc đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các kỳ đại hội Đảng. Năm 2011, Đại hội XI của Đảng đã xác định việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược, đến Đại hội XIII (năm 2021), nội hàm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác định rộng và cụ thể hơn: “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”8. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thống nhất, nâng cao nhận thức và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Thực tiễn công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng làm sáng tỏ nhiều vấn đề mang tính quy luật, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đó là phải chú trọng xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính trị; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHXN, thực hiện quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng pháp luật theo tinh thần “Thượng tôn pháp luật”; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đầy mạnh đầu tư khoa học công nghệ; tham gia hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế sâu rộng và hiệu quả, giữ vững độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam với những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp trong thời đại mới; bảo đảm thực hiện tốt hệ thống chính sách an sinh xã hội vì hạnh phục của Nhân dân.

CNXH của Việt Nam không chỉ tuân theo những nguyên tắc cơ bản của CNXH khoa học mà còn mang đặc trưng của Việt Nam dựa trên truyền thống văn hóa và điều kiện thời đại; giúp hiểu sâu hơn về quy luật điều hành của Đảng Cộng sản, quy luật của quá trình xây dựng XHCN và quy luật phát triển của xã hội loài người; nó đã tích lũy kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam và đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập, từ đó đã hình thành nên phong cách phát triển XHCN riêng của Việt Nam.

Kết luận

Sự kiên định trụ vững và từng bước đi vào phát triển ổn định với nhiều thành tựu to lớn mà các nước XHCN đạt được đã khiến nhân loại không mất đi niềm tin, hy vọng vào tương lai sáng lạn của CNXH. Đây là bằng chứng sinh động khẳng định sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì vậy, CNXH vẫn là xu thế của thời đại ngày nay, sự cùng tồn tại và phát triển của các nước có chế độ xã hội và các giai đoạn phát triển khác nhau là đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách,CNXH sẽ nhất định sẽ có những bước phát triển mới “theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”9. Tại Việt Nam, những thành tựu của công cuộc đổi mới hơn 36 năm qua khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH mà Đảng ta đã tìm tòi và khái quát thành mô hình đặc trưng và phương hướng triển khai thực hiện cụ thể. Việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình, cần dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 496.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 315.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 390
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 30.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 230 – 231, 231.
7,9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr.70, tr. 69.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021, tr. 328.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Đình Phong. Về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tạp chí Tư tưởng Văn hoá. Số 10, 2007,29 – 32.
2. Nguyễn An Ninh. Quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Số 8 (105), 2016, tr. 85 – 91.
ThS. Trần Minh Đức
NCS. Trường Đại học Thủ Dầu Một