Tiêu dùng văn hóa qua một số nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Tiêu dùng văn hóa là một dạng thức tiêu dùng gắn với các sản phẩm văn hóa nghệ thuật, phản ánh một phương diện quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội hiện đại. Chủ đề “Tiêu dùng văn hóa” đang thu hút nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, khám phá. Bài viết tóm lược một số nghiên cứu xem xét tiêu dùng văn hóa như một phương thức thể hiện bản sắc; là một giai đoạn trong quy trình sáng tạo và phân phối của các ngành công nghiệp văn hóa hay nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa ở những nhóm xã hội cụ thể.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

“Tiêu dùng văn hóa” là việc sử dụng các sản phẩm văn hóa để thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho cá nhân, là hoạt động căn bản của con người, tồn tại song hành cũng nhiều hoạt động khác. Tiêu dùng văn hóa nhấn mạnh tính chủ động của các cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn, chi trả, hưởng thụ, đánh giá các sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn hóa từ nhiều lĩnh vực khác nhau như: điện ảnh, âm nhạc, văn học, quảng cáo, chương trình truyền hình, trò chơi điện tử… Tiêu dùng văn hóa là một phần quan trọng trong đời sống, giúp bồi dưỡng và phát triển thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, góp phần hình thành nên con người toàn diện. Tiêu dùng văn hóa ngoài việc đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu giải trí còn là phương cách để con người bộc lộ, biểu hiện bản sắc cá nhân cũng như tương tác, kết nối với các cá nhân khác.

Từ một hiện tượng phổ biến trong xã hội, tiêu dùng văn hóa cũng đang là chủ đề được quan tâm nhiều trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và nghiên cứu văn hóa nói riêng, nhất là trong bối cảnh công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo đang trở thành ngành kinh tế trụ cột của nhiều quốc gia. Nhìn chung các nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa trên các phương diện: xem xét tiêu dùng văn hóa như một phương thức thể hiện bản sắc, một giai đoạn trong quy trình sáng tạo và phân phối của các ngành công nghiệp văn hóa hay nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa ở những nhóm xã hội cụ thể.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một phương thức thể hiện bản sắc

Tiêu dùng là chủ đề được nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Ngành Kinh tế học quan tâm đến những yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng như: văn hóa, xã hội, cá nhân, tâm lý… để có thêm hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng nhằm thực hiện chiến lược maketing hiệu quả, tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận. Ngành Xã hội học, vượt ra phạm vi sự hợp lý của quy luật cung – cầu trong ngành Kinh tế, coi tiêu dùng là hoạt động trung tâm của mỗi cá nhân trong đời sống hằng ngày, qua đó phân loại xã hội, làm sáng tỏ tư cách thành viên nhóm, địa vị xã hội. Ngành Nghiên cứu văn hóa khám phá các thực hành tiêu dùng, coi đó như một phương cách để con người thời hiện đại kiến tạo ý nghĩa, định vị bản sắc. Các thực hành tiêu dùng nói chung và tiêu dùng văn hóa nói riêng không đơn thuần chỉ thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mà còn là hành vi mang tính biểu tượng, thể hiện và kiến tạo “gu thẩm mĩ”, phong cách và bản sắc.

“Taste classifes, and it classifies the classifier” (Thị hiếu phân biệt, và nó phân biệt người phân biệt), “gu khác biệt” hay “thị hiếu khác biệt” (taste of distinction) là luận điểm quan trọng của Pierre Bourdieu bàn về sự phân biệt thị hiếu dựa trên những khác biệt về nền tảng văn hóa1. Trong cuốn sách Distinction: a social critique of the judgment of taste (1984)2 khi bàn về vấn đề tiêu dùng, Bourdieu đặt ra câu hỏi là kinh tế và xã hội, yếu tố nào quyết định đến thị hiếu của con người, một câu hỏi mà các nhà kinh tế không mấy quan tâm hoặc thường bỏ qua khi mặc nhiên thừa nhận câu trả lời tất nhiên là kinh tế. Vậy tại sao người ta lại lựa chọn thứ này mà không phải thứ khác? Ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu căn bản của con người, còn yếu tố nào chi phối đến các quyết định tiêu dùng? Ông cho rằng: “Thị hiếu thẩm mỹ có tính phân biệt, nó phân biệt người phân biệt. Các đối tượng xã hội được phân loại theo sự phân loại của họ, tự phân biệt mình bằng sự phân biệt họ tạo ra, giữa đẹp và xấu xí, giữa sang trọng và thô tục, qua đó vị thế xã hội của họ được tạo dựng hoặc bị hủy hoại. Những phân tích thống kê cũng thực sự cho thấy điều đó được tìm thấy trong thực tiễn văn hóa cũng như xuất hiện trong thói quen ăn uống3. Bourdieu cho rằng “thị hiếu không phải là một sự tùy tiện, nó dựa trên quyền lực và vị thế xã hội”4.

Những diễn giải sau đó tác giả tập trung phân tích nét khác biệt của thị hiếu thẩm mỹ hay “gu” thẩm mỹ thể hiện trong sự lựa chọn. Nó cho chúng ta nhận thấy, khẩu vị trong ăn uống hay thị hiếu thẩm mỹ trong việc lựa chọn mỹ phẩm, quần áo, cách thức trang trí nhà cửa… đều là cơ hội để trải nghiệm và khẳng định vị thế của con người trong không gian xã hội, để duy trì một địa vị, một khoảng cách với những đối tượng khác. Thị hiếu hay cách thức tiêu dùng hằng ngày vì vậy chính là một chỉ dẫn để nhận diện và giải mã vị thế xã hội của con người. Sự phân biệt khẩu vị, thị hiếu thẩm mỹ không đơn giản phản ánh một lối sống, cách thức tiêu thụ mà còn là yếu tố hình thành nên vị thế xã hội, ẩn chứa các mối quan hệ về quyền lực. Trong nhiều trường hợp, người ta muốn và lựa chọn những thứ để tỏ ra khác biệt, để tự phân biệt với số đông còn lại, để không giống ai khác. Nó giống như một tín hiệu để định vị mình thuộc nhóm người này chứ nhất định không phải nhóm người kia.

Lý thuyết về thị hiếu khác biệt hay “gu khác biệt” (taste of distinction) của Bourdieu5 đã được nhiều tác giả vận dụng vào thực tiễn tiêu dùng văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nghiên cứu sau này cũng tìm hiểu, xác định địa vị xã hội, tầng lớp xã hội, trình độ học vấn và thu nhập có liên quan như thế nào đến tiêu dùng văn hóa như Tally Katz Gerro trong Cultural Consumption and Social Stratification: Leisure Activities, Musical Tastes, and Social Location (Tiêu dùng văn hóa và phân tầng xã hội: hoạt động giải trí, thị hiếu âm nhạc và vị thế xã hội)6; Arthur S.Alderson – Azamat Junisbai – Isaac Heacock với Social status and curtural consumption in the United State (Vị thế xã hội và tiêu dùng văn hóa tại Mỹ)7; Erzsebet Bukodi với Social stratification and cultural consumption in Hungary: book readership (Phân tầng xã hội và tiêu dùng văn hóa ở Hungary: độc giả)8… Từ góc nhìn của ngành nghiên cứu văn hóa, cuốn Cultural consumption in everyday life (Cultural studies in practice) (Tiêu dùng văn hóa trong đời sống hàng ngày) của tác giả John Storey9 là một công trình quan trọng về tiêu dùng văn hóa. Nghiên cứu đã phác thảo các quan điểm lý thuyết, nhìn lại các cuộc tranh luận về chủ nghĩa hậu hiện đại, về tiêu dùng và bản sắc, coi tiêu dùng văn hóa là một phần trong cuộc sống hằng ngày, nó có thể nói lên chúng ta là ai hoặc chúng ta muốn trở thành ai.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một giai đoạn của quy trình sáng tạo và phân phối các ngành công nghiệp văn hóa

Dưới góc nhìn của ngành Kinh tế học văn hóa và quản lý văn hóa, nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa đồng nghĩa với việc nghiên cứu một công đoạn quan trọng trong quy trình vận hành của các ngành công nghiệp văn hóa, nhằm phát triển khán giả, thúc đẩy việc sản xuất và tái sản xuất các sản phẩm văn hóa. Sự nổi lên của công nghiệp văn hóa nhấn mạnh vai trò của thị trường văn hóa, nơi các sản phẩm và dịch vụ văn hóa được lưu thông theo nguyên lý cung – cầu. Trong thị trường văn hóa, tiêu dùng văn hóa, hay cụ thể hơn là người tiêu dùng văn hóa trở thành một trong 3 trụ cột quan trọng trong mối quan hệ người sản xuất văn hóa – sản phẩm văn hóa – người tiêu dùng văn hóa.

Trong cuốn A textbook of cultural economics (Một cuốn sách về kinh tế văn hóa) của Ruth Towse10, chương 6 đã đề cập đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ văn hóa. Về phương diện kinh tế, người tiêu dùng trong trường hợp này là khán giả, du khách, người xem… khi họ mua một vé xem phim, tham quan di tích hay mua một cuốn sách. Tác giả cũng đã đề cập và phân tích hai khía cạnh của việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa: mô hình tiêu dùng được bộc lộ khi người tiêu dùng mua hàng hóa/dịch vụ văn hóa và lý thuyết về nhu cầu để giải thích cách lựa chọn của người tiêu dùng. Chi tiêu của người tiêu dùng trong trường hợp này chính là việc đem lại nguồn thu cho người sản xuất.

Tại Việt Nam, trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định phát triển thị trường, nâng cao năng lực hưởng thụ văn hóa của công chúng là một trong những nhiệm vụ và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó nhấn mạnh: “Từng bước hình thành cộng đồng người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ văn hóa trong nước thông qua hoạt động quảng bá, nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng11. Trước đó, đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tác giả Phạm Bích Huyền trong Giáo trình Các ngành công nghiệp văn hóa12; tác giả Lương Hồng Quang trong cuốn sách chuyên khảo Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam13, đặt tiêu dùng sản phẩm văn hóa như một giai đoạn của quy trình sản xuất và phân phối của các ngành công nghiệp văn hóa. Các nghiên cứu này đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của tiêu dùng văn hóa so với tiêu dùng sản phẩm vật chất thông thường. Ngoài việc sản phẩm không bị hao mòn về giá trị qua tiêu thụ, các tác giả đều nhấn mạnh tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang nặng tính tâm lý hơn là vật lý, ở đó quá trình tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang đến những trải nghiệm tinh thần, cảm xúc, rung động, tình cảm cho người tiêu dùng. Đặt trong quy trình vận hành của các ngành công nghiệp văn hóa, tiêu dùng dù là giai đoạn cuối cùng (phát triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu dùng/bảo quản) nhưng lại là khởi đầu cho một quy trình khác mang tính vòng lặp như vậy, nói cách khác tiêu dùng văn hóa sẽ thúc đẩy sáng tạo văn hóa. Nhấn mạnh vai trò của hoạt động tiêu dùng, các nghiên cứu cũng chỉ ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong chính sách của nhà nước, đó là vừa đầu tư, chú trọng vào hoạt động sản xuất, sáng tạo (bên cung) vừa đồng thời phát triển khán giả – người tiêu dùng (bên cầu). Sản phẩm văn hóa làm ra cuối cùng là phục vụ cho khán giả, hướng tới khán giả, vì thế nhiều nước tập trung nguồn lực để phát triển công chúng có hiểu biết, có nhu cầu hưởng thụ văn hóa và xem đó như là cách để gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất, sáng tạo.

Nghiên cứu Để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Thanh Thủy đã đưa ra một số nhóm giải pháp về quản lý nhà nước; cải tổ năng lực sáng tạo, sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa và năng lực vận hành thương mại. Nghiên cứu cũng đề cập tới việc tập trung nâng cao năng lực tiêu dùng, tiếp thu của công chúng đối với các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Theo đó, sự chủ động trong tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp văn hóa phụ thuộc vào năng lực tiếp thu, cảm nhận, sự hiểu biết về văn hóa cũng như thói quen tiêu dùng, tham dự vào các hoạt động văn hóa14. Vì thế các chương trình phát triển công chúng, phát triển khán giả nên chú trọng đến việc nâng cao nhận thức về văn hóa nghệ thuật cũng như giáo dục tiêu dùng có trách nhiệm. Đây cũng chính là nhóm giải pháp tập trung cho bên “cầu” trong mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ giữa người sản xuất (bên cung) với người tiêu dùng (bên cầu) như đã đề cập đến ở trong các nghiên cứu trước.

Trong Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” do Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Tiến Mạnh đã gợi mở nhiều vấn đề tại tham luận “Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay”. Bài viết đề cập khái quát một số nội dung của tiêu dùng văn hóa đặt trong mối quan hệ với những vấn đề cơ bản của kinh tế văn hóa như: khái niệm tiêu dùng văn hóa, sự phát triển của tiêu dùng văn hóa, đặc điểm tiêu dùng văn hóa, cơ cấu tiêu dùng văn hóa và các xu hướng tiêu dùng văn hóa hiện nay. Cũng đặt trong quy trình sáng tạo, phân phối, bảo quản và tiêu thụ các sản phẩm văn hóa, tác giả cho rằng tiêu dùng không phải là công đoạn kết thúc của quy trình mà thực chất là sự khởi đầu cho những quy trình tiếp theo, thúc đẩy sự sáng tạo diễn ra không ngừng15.

Như vậy, kể từ khi công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo được xem là hướng đi mới nhằm khai thác sự sáng tạo, tạo thu nhập và việc làm, thúc đẩy phát triển văn hóa xã hội, thì vấn đề tiêu dùng văn hóa cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Đa phần các nghiên cứu đều đặt tiêu dùng văn hóa trong quy trình vận hành của các ngành công nghiệp văn hóa, là một trong bốn giai đoạn quan trọng bao gồm: phát triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu thụ và bảo quản. Dù là giai đoạn cuối trong quy trình nhưng tiêu thụ hay tiêu dùng văn hóa lại là động lực để thúc đẩy việc mở ra những quy trình tiếp theo, tạo ra những vòng lặp liên tiếp với quy mô ngày càng rộng mở hơn.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể

Ngoài những vấn đề lý thuyết chung như đã đề cập đến ở trên, một số nghiên cứu tại Việt Nam đã đi sâu tìm hiểu tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể, tại các địa phương cụ thể. Trong bài viết Sử dụng thời gian tự do vào tiêu dùng văn hóa, tác giả Chu Khắc đã xem tiêu dùng văn hóa trong thời gian tự do là một cách thức để kiến tạo lối sống xã hội chủ nghĩa mà ở đó con người được phát triển toàn diện và hài hòa. Bài viết đã coi “hình thức sử dụng thời gian tự do quan trọng nhất là tham gia các hoạt động văn hóa16. Tuy nhiên các hình thức còn tương đối hạn hẹp trong điều kiện khó khăn của xã hội lúc bấy giờ, phần lớn chỉ xoay quanh việc đọc báo, xem tivi trong gia đình, xem kịch, ca nhạc hay các hoạt động thể thao, xem triển lãm, đến các bảo tàng. Bài viết cũng đã sơ đồ hóa các yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa, bao gồm yếu tố bên ngoài (truyền thống gia đình, môi trường sống), yếu tố bên trong (trình độ giáo dục, nghề nghiệp, mức sống, thu nhập) và yếu tố bổ sung (giới tính, tuổi tác)17. Thuật ngữ “tiêu dùng văn hóa” chưa được đề cập đến trong bài viết một cách rõ ràng, trực diện mà ngầm ẩn trong các hình thức sử dụng “thời gian tự do”. Trong bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn lúc bấy giờ, việc quan tâm và đề cập đến tiêu dùng văn hóa, thời gian rỗi đã cho thấy ý thức sâu sắc về vai trò của tiêu dùng văn hóa đối với việc xây dựng con người mới, lối sống mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Lê Như Hoa Tiêu dùng văn hóa trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước18 đặt vấn đề tiêu dùng văn hóa trong bối cảnh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Từ việc nghiên cứu thực trạng tiêu dùng văn hóa của cư dân đô thị và nông thôn ở một số lĩnh vực văn hóa tiêu biểu, đề tài đưa ra những hướng dẫn tiêu dùng văn hóa và những giải pháp giúp cho cơ quan lãnh đạo văn hóa trong việc điều hành tiêu dùng văn hóa. Luận án tiến sĩ Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa19 chuyên ngành Văn hóa học của Đặng Thị Thúy Hằng đề cập đến tiêu dùng văn hóa như một phương diện biểu hiện thực trạng đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước tác động của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án đã nhận diện, mô tả và phân tích về phương tiện tiêu dùng văn hóa, nhu cầu, mức độ, nội dung tiêu dùng văn hóa. Nghiên cứu Tiêu dùng văn hóa của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn20 của Lê Thị Thanh Thủy – Nguyễn Hồ Phong lại hướng đến một nhóm xã hội khác, khá phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong xã hội: công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Tiêu dùng các sản phẩm văn hóa như âm nhạc, phim ảnh, sách báo, tạp chí,… có ý nghĩa quan trọng với mọi lứa tuổi trong xã hội. Các nghiên cứu của Đinh Việt Hà như Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa21, Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ22,  Hâm mộ thần tượng: một thực hành tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam hiện nay23 đã chỉ ra rằng riêng với giới trẻ, tiêu dùng văn hóa vừa là hình thức giải trí tiêu biểu vừa là phương thức để họ tạo dựng và thể hiện bản sắc cá nhân. Việc người trẻ nhanh nhạy tiếp cận với sản phẩm, các trào lưu, xu hướng hay lựa chọn thưởng thức loại sản phẩm văn hóa nào cũng là cách để nói lên cái tôi cá nhân, phong cách và cá tính.

Cũng nghiên cứu về giới trẻ, tác giả Đặng Thị Tuyết bàn về tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại thương). Dưới lăng kính lý thuyết tiếp nhận, mô hình mã hóa/ giải mã (encoding/decoding) của Stuart Hall, luận án sử dụng thuật ngữ “tiếp nhận văn hóa” với nghĩa là “sự lựa chọn có chủ đích của chủ thể (cá nhân, nhóm xã hội) đối với sản phẩm văn hóa thông qua các phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình24. Trên cơ sở khảo sát thực trạng tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên đang học tập tại 3 trường đại học (Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), trên 3 phương diện (chủ thể tiếp nhận, nội dung tiếp nhận, phương thức tiếp nhận), trong phạm vi 3 lĩnh vực của văn hóa đại chúng (điện ảnh, âm nhạc, thời trang), luận án đã chỉ ra rằng đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình định hướng và hình thành kỹ năng nghề nghiệp, cũng là nhóm nhanh nhạy với công nghệ, được tiếp cận rộng rãi với sự du nhập của các khuynh hướng và ý tưởng mới mẻ từ thế giới. Cũng vì thế, tiếp nhận văn hóa của sinh viên khá đa dạng, bằng nhiều hình thức, phương tiện khác nhau, có tác động lớn đến đời sống tinh thần như giúp cân bằng cuộc sống, trang bị tri thức, kỹ năng, định hình hệ giá trị. Luận án cũng phân tích 3 khuynh hướng tiếp nhận với những đặc điểm riêng biệt: tiếp nhận thụ động, tiếp nhận phủ định và chiếm số đông nhất là tiếp nhận thương lượng. Với tư cách là những chủ thể năng động, hào hứng với cái mới, sinh viên chủ động lựa chọn, thu nhận, gạn lọc và sáng tạo trong quá trình tiếp nhận để phù hợp với lứa tuổi và để định hình nên bản sắc cá nhân.

Kết luận

Như vậy, có thể thấy, các vấn đề lý thuyết về tiêu dùng văn hóa cũng như thực tiễn tiêu dùng văn hóa ở các nhóm đối tượng cụ thể đã được nghiên cứu trong nhiều công trình khác nhau trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Cho đến nay, đây vẫn là chủ đề đang tiếp tục được khám phá dưới các quan điểm tiếp cận, các đối tượng, các lĩnh vực văn hóa khác nhau. Hơn nữa, bối cảnh xã hội với nhiều thay đổi liên tục tác động, chi phối đến việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương tiện tiêu dùng văn hóa. Sự tác động này tới các nhóm xã hội cũng hoàn toàn theo những cách thức riêng biệt. Do vậy, tiêu dùng văn hóa vẫn luôn là chủ đề mở cho các nghiên cứu.

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5. Bourdieu, P. (1984), Distiction: A Social Critique of the Judgment of Taste, USA: Havard.
6. Tally Katz Gerro (1999), Cultural Consumption and Social Stratification: Leisure Activities, Musical Tastes, and Social Location, Sociological Perspectives, Volume: 42 issue: 4, page(s): 627-646.
7. Arthur S.Alderson; Azamat Junisbai; Isaac Heacock (2007), Social status and curtural consumption in the United State, Poetics, Volume 35, Issues 2–3, April–June 2007, pages 191-212.
8. Erzsebet Bukodi (2007), Social stratification and cultural consumption in Hungary: book readership, Poetics, Volume 35, Issues 2–3, April–June 2007, pages 112-131.
9. John Storey (1999), Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural Studies in Practice), Bloomsbury USA.
10. Ruth Towse (2019), A textbook of cultural economics, Cambridge University Press.
11. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
12. Phạm Bích Huyền. Giáo trình Các ngành công nghiệp văn hóa. H. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
13. Lương Hồng Quang. Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam – Môi trường thể chế, thị trường và sự tham gia. H. NXB Thế giới, 2018.
14. Đỗ Thị Thanh Thủy. Để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Tạp chí Văn hóa học, số 6 (16), tr 3 – 21, 2014.
15. Nguyễn Tiến Mạnh. Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay (tham luận Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/5/2013).
16, 17. Chu Khắc. Sử dụng thời gian tự do vào tiêu dùng văn hóa. Tạp chí Xã hội học, số 3, 1983.
18. Lê Như Hoa. Tiêu dùng văn hoá trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Văn hóa trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội, 2001.
19. Đặng Thị Thúy Hằng. Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2015.
20. Lê Thị Thanh Thủy; Nguyễn Hồ Phong. Tiêu dùng văn hóa của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2020.
21. Đinh Việt Hà. Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (173), tr 41 – 50, 2017.
22. Đinh Việt Hà. Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (179), tr 67 – 74, 2018.
23. Đinh Việt Hà. Hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, 2021.
24. Đặng Thị Tuyết. Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại thương). Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Đề tài mã số ĐTCT.2022.136 của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã được nghiệm thu năm 2022.
TS. Phạm Thị Hương – ThS. Nguyễn Thị Kim Chi
Học viện Hành chính Quốc gia