Tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của Nhà nước

(Quanlynhanuoc.vn)  –  Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận hợp thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đồng thời, là cơ  sở để Nhân dân phát huy vai trò làm chủ thông qua hoạt động giám sát của tổ chức đại diện cho mình là Mặt trận Tổ quốc. Tìm hiểu rõ thực tiễn vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của Nhà nước và đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc là điều cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

 

Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ XI (Nguồn: http://baochinhphu.vn).

Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức quần chúng do Đảng ta thành lập và lãnh đạo, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị – xã hội (CTXH) luôn giữ một vị trí, vai trò quan trọng. Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1”.

Vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CTXH đã được Hiến pháp năm 2013 quy định. Nội dung này đã được cụ thể hóa bằng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội” (ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” (Ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013, của Bộ Chính trị), cùng với việc Quốc hội ban hành Luật MTTQ Việt Nam năm 2015.

Đây là cơ sở quan trọng, là tiền đề nhận thức về vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam  trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội. Quan trọng hơn, là cơ sở chính trị để MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CTXH thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát xã hội đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn lịch sử hiện nay, góp phần quan trọng vào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay có hai loại giám sát là giám sát mang tính quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và giám sát xã hội mang tính quyền lực nhân dân (MTTQ Việt Nam, các tổ chức CTXH, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, phương tiện thông tin đại chúng và các cá nhân, cộng đồng…).

Giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức CTXH là một bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần bảo đảm việc sử dụng quyền lực nhà nước đúng mục đích, đạt hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế tình trạng lạm quyền, tham nhũng… Để phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong kiểm soát quyền lực nhà nước cần thiết phải bảo đảm tính độc lập tương đối của MTTQ và các tổ chức CTXH; bảo đảm sự kết hợp giữa các hình thức giám sát của Nhà nước, hoạt động kiểm tra, thanh tra của Nhà nước với các hình thức giám sát của MTTQ, các tổ chức CTXH.

Do vậy, mô hình giám sát của MTTQ và các tổ chức CTXH phải bảo đảm các thiết chế giám sát không bị phụ thuộc vào đối tượng chịu sự giám sát. Pháp luật phải bảo đảm MTTQ và các tổ chức CTXH không bị lệ thuộc vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Ngoài ra, MTTQ và các tổ chức CTXH phải thể hiện được vai trò giám sát của mình một cách chủ động và độc lập với các chủ thể giám sát khác.

Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay

Những kết quả đã đạt được

Thực hiện Quyết định số 217 – QĐ/TW; Quyết định số 218 – QĐ/TW, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CTXH và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng  chính quyền, MTTQ Việt Nam đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả tích cực: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; tạo đồng thuận xã hội; góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị vững mạnh.

Trên thực tế, MTTQ đã phối hợp và tham gia các hoạt động giám sát với Quốc hội và HĐND các cấp; thường xuyên “cử đại diện tham gia các đoàn giám sát do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, HĐND, các ban của HĐND tiến hành đã giúp Ủy ban MTTQ phát hiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước”2 . Hoạt động phối hợp này đã tạo ra bầu không khí cởi mở và tạo ra sự đồng thuận giữa chủ thể và các đối tượng giám sát trong việc tìm kiếm giải pháp để giải quyết những kiến nghị về giám sát.

Trong những năm qua, MTTQ Việt Nam đã chủ trì và phối hợp giám sát trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động tư pháp và các lĩnh vực kinh tế – xã hội quan trọng của đất nước, như: thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; chính sách đối với người có công, đồng bào dân tộc thiểu số; việc quản lý và sử dụng đất của các nông, lâm trường quốc doanh; việc quản lý nhà nước về bảo đảm an toàn thực phẩm, an toàn giao thông; việc thi hành án dân sự, hình sự; công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết, trả lời các kiến nghị của cử tri và Nhân dân…

Những bất cập, hạn chế của hoạt động giám sát của MTTQ

Thứ nhất, hoạt động giám sát xã hội của MTTQ nhiều nơi còn lúng túng; pháp luật quy định có 4 hình thức giám sát cơ bản của MTTQ là: nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tổ chức đoàn giám sát; thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, ban giám sát đầu tư của cộng đồng; tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Tuy nhiên ở các cấp, MTTQ địa phương và kể cả trung ương mới chỉ chú trọng vào hình thức giám sát tổ chức đoàn giám sát mà chưa quan tâm thích đáng các hình thức giám sát khác. Trong đó, sử dụng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản, giám sát văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân chưa được quan tâm đúng mức. Việc phối hợp giải quyết kiến nghị của MTTQ và các tổ chức CTXH, các bộ, ngành nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của Nhân dân; vẫn còn tình trạng một số kiến nghị giám sát giải quyết kéo dài, không dứt điểm, có sự đùn đẩy, né tránh của các cơ quan chức năng. Tương tự, trách nhiệm của một số cơ quan nhà nước trong việc xử lý hậu quả hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức CTXH chưa xác định cụ thể, rõ ràng3.

Thứ hai, mô hình hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức CTXH chưa độc lập với các cơ quan nhà nước. Các thiết chế này vẫn lệ thuộc vào chính đối tượng bị giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế. Về cơ bản, nguồn kinh phí để MTTQ và các tổ chức CTXH thực hiện nhiệm vụ giám sát chưa có nguồn độc lập, “cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với MTTQ, các đoàn thể CTXH còn bất cập; một số quy định về tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý tài chính, tài sản đối với tổ chức công đoàn chưa phù hợp”4 . Hạn chế về kinh phí làm vai trò giám sát của MTTQ đối với bộ máy nhà nước mờ nhạt, chủ yếu là một số quy định về trách nhiệm của các tổ chức này trong việc động viên đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia giám sát một số lĩnh vực quản lý hành chính liên quan đến chức năng của tổ chức đó

Thứ ba, pháp luật đã có quy định cơ chế công khai cung cấp thông tin trong hoạt động giám sát. Tuy nhiên, do bất cập, hạn chế trong các quy định như: chưa xác định rõ trình tự, thủ tục và trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận giải quyết kiến nghị giám sát. Do vậy, một số kiến nghị, phản ánh về kết quả hoạt động giám sát của MTTQ gửi đến cơ quan nhà nước chưa kịp thời xử lý hoặc chưa được giải quyết thấu đáo.

Trên thực tế, việc giải quyết, trả lời ý kiến của một số bộ, ngành, các cơ quan chức năng còn hình thức. Một số nội dung thực tế đang đòi hỏi nhưng chưa được quy định cụ thể, chưa có cơ chế để MTTQ, các tổ chức CTXH và Nhân dân giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định góp ý kiến vào bản kiểm điểm hằng năm của tập thể cấp ủy các cấp; chưa có quy định cụ thể để phát huy trách nhiệm, vai trò của ban công tác mặt trận khu dân cư trong việc nhận xét, lấy ý kiến hằng năm và đột xuất đối với cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm về đạo đức, lối sống.

Thứ tư, MTTQ sử dụng hình thức giám sát thông qua hoạt động Ban Thanh tra nhân dân vẫn còn hạn chế. Pháp luật quy định Ban Thanh tra nhân dân là một thiết chế bán chuyên trách thực hiện giám sát mang tính xã hội. Tuy nhiên, địa vị pháp lý cũng như thiết kế mô hình hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân lại còn nhiều “thua thiệt” so với Thanh tra Nhà nước trong cùng một đạo luật Luật Thanh tra năm 20105. Thêm vào đó, tuy là cùng được quy định trong một văn bản luật nhưng không hề có sự liên hệ, hỗ trợ nhau giữa Thanh tra Nhà nước và Ban Thanh tra nhân dân ở cấp chính quyền cơ sở và các cơ quan nhà nước trong việc xử lý kết quả giám sát của Ban Thanh tra nhân dân.

Thứ năm, kết quả giám sát và phản biện xã hội chưa đều, phản biện còn ít; một số nơi làm hình thức, thụ động; còn biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm; kỹ năng, năng lực trình độ cán bộ còn hạn chế; việc theo dõi thực hiện sau giám sát và phản biện nhiều nơi làm chưa tốt… Những hạn chế này do phạm vi giám sát và phản biện xã hội rộng, yêu cầu cao trong khi nguồn lực con người và điều kiện vật chất của MTTQ Việt Nam có hạn; nhận thức của cán bộ Mặt trận và đối tượng được giám sát, của cấp ủy, chính quyền còn nhiều biểu hiện chưa đúng, chưa đầy đủ về nhiệm vụ này.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Một là, hoàn thiện pháp luật có liên quan đến công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên theo hướng: bổ sung các biện pháp theo dõi quá trình tiếp nhận và trả lời việc tiếp nhận kiến nghị của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đối với các kiến nghị giám sát; bổ sung các chế tài đối với trường hợp không tiếp nhận, hoặc tiếp nhận nhưng trả lời không đúng thời gian luật định của cơ quan, người có thẩm quyền đối với kiến nghị giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị – xã hội…

Cần sớm xây dựng và ban hành Luật Giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Xây dựng chương trình phối hợp giám sát giữa các cơ quan quyền lực nhà nước và hoạt động giám sát của Nhân dân để bảo đảm giám sát có hiệu quả, hợp lý, khoa học. Đặc biệt trong điều kiện một đảng cầm quyền như ở nước ta, các đoàn thể quần chúng đại diện cho các giai tầng trong xã hội tham gia công việc của đất nước là một nhiệm vụ vô cùng cần thiết.

Hai là, ban hành quy chế phản biện xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước. Phản biện xã hội là điều kiện căn bản, thiết yếu phải công khai, minh bạch để Nhân dân tham gia tổ chức, quản lý nhà nước và chủ động phòng, chống khi cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức lạm dụng quyền, bưng bít thông tin. Ban hành các quyết định để bảo vệ lợi ích cục bộ, lợi ích cá nhân trong cơ quan nhà nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Xây dựng quy chế phối hợp giữa cơ quan MTTQ với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước; cần coi giám sát của MTTQ và các tổ chức CTXH là một nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Ba là, tạo điều kiện để Nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Thông tin là cơ sở, điều kiện của giám sát, vì giám sát phải có các chứng cứ, chứng minh việc thực thi đúng hay không đúng pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức. Thông tin để Nhân dân biết các quy định, các dự án và các văn bản pháp luật, giám sát đối với việc thực thi quyền lực nhà nước. Ngoài ra, thông qua kênh thông tin, người dân có thể bày tỏ ý kiến của mình về hành vi của các cá nhân trong cơ quan công quyền và về những vấn đề liên quan, bởi chính sách, pháp luật của Nhà nước không phải bao giờ cũng phù hợp với sự vận động của đời sống xã hội, mà luôn phải được sửa đổi, bổ sung qua thực tiễn cuộc sống.

Bốn là, đổi mới tổ chức hoạt động của MTTQ Việt Nam các cấp, các tổ chức CTXH. Đổi mới phương thức hoạt động giám sát, giám sát của MTTQ có tính xã hội. Cần xây dựng cơ chế tiếp thu, giải trình những kiến nghị của MTTQ trong hoạt động giám sát. Theo đó, khi lập chương trình, kế hoạch và lựa chọn nội dung giám sát cần phải quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chủ thể giám sát cũng như nghĩa vụ của đối tượng bị giám sát; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến nội dung và đối tượng chịu sự giám sát phải trả lời bằng văn bản trong thời gian nhất định về kiến nghị giám sát của MTTQ; xác định trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà nước trả lời kiến nghị giám sát của MTTQ và các tổ chức CTXH trong thời gian quy định.

Năm là, thực hiện tốt nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Công khai, minh bạch là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các hành vi tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch, làm suy giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; là điều kiện cần để thực hiện nhiệm vụ giám sát có hiệu quả. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Chú thích:
1. Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp năm 2013.
2. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Thực tiễn và một số kiến nghị. http://tcdcpl.moj.gov.vn, ngày 27/9/2016.
3.Giám sát phản biện xã hội thiết thực với cuộc sống nhân dân. http://www.nhandan.com.vn, ngày 11/01/2018.
4. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng(khóa XI) về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
5. Hoàng Minh Hội. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2015,  tr. 98.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc (khóa XII). H. NXB Chính trị – Sự thật, 2016.
2. Nguyễn Quang Vinh. Vai trò của báo in trong thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội ở Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2018.
ThS. Lê Ngọc Hưng
Học viện Hành chính Quốc gia