Bảo đảm bình đẳng giới cho nữ cán bộ, công chức hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Trên cơ sở kế thừa Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020, tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, ngày 03/3/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030, điều này góp phần quan trọng trong việc nâng cao vai trò, vị trí của nữ cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ, giúp họ có cơ hội phát triển trên con đường chức nghiệp.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Hà Thị Nga (thứ ba, phải sang) cùng các nữ đại biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ 9 (khóa VII). Ảnh: xaydungdang.org.vn)

Công tác bình đẳng giới (BĐG) nói chung và công tác BĐG trong hệ thống cơ quan nhà nước nói riêng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Những thành tựu vượt bậc của công tác cán bộ nữ và BĐG trong suốt thời gian qua là minh chứng rõ ràng nhất của Đảng và Nhà nước ta về việc bảo đảm bình đẳng cho nữ cán bộ, công chức (CBCC) hiện nay.

Việt Nam đã ký kết tham gia Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW) và đã được từng bước luật hóa trong văn bản pháp luật và các chính sách có liên quan đến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, như: Luật BĐG năm 2006; Luật Phòng, chống bạo lực gia đìnhnăm 2007; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Bộ luật Hình sự năm 2015… Mục tiêu BĐG đã được ghi rõ trong Luật BĐG năm 2006: “xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam giới và nữ giới trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”.

Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị là những chương trình, chủ trương thúc đẩy BĐG đã đề ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35 – 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu BĐG; phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ1.

Tinh thần BĐG trong đời sống chính trị được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng, tại Đại hội XII, Đảng ta đã nhấn mạnh, phải “Tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước”. Tiếp theo, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong Ban Thường vụ”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu Ban Thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 -25%”.

Một trong những thành công  nổi bật của Đại hội Đảng các cấp thời gian qua là việc cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp đều tăng cả về số lượng và chất lượng, trong đó, hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp. Đặc biệt, tại Đại hội XIII, số Ủy viên Trung ương Đảng chính thức được bầu có 18 đại biểu nữ, tăng 1 đại biểu so với nhiệm kỳ khóa XII. Trong 63 bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 – 2025 có tới 9 người là nữ thuộc các tỉnh: An Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Lai Châu, Lạng Sơn, Ninh Bình, Quảng Ngãi, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Đây là số lượng nữ Bí thư Tỉnh ủy nhiều nhất từ trước đến nay. Tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, với 93,13% đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết bầu Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nữ Bí thư Tỉnh ủy An Giang.

Tại Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, số lượng đại biểu nữ cũng tăng trong nhiệm kỳ gần đây. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV là 27,1%, tăng 2,3% so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đạt 26,5% (tăng 1,37% so với nhiệm kỳ trước); cấp huyện đạt 27,9% (tăng 3,2% so với nhiệm kỳ trước). Việc bố trí lãnh đạo nữ trong Quốc hội kỳ này chiếm gần 40%. Đây là minh chứng về thành tựu nổi bật trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, sự vươn lên của phụ nữ Việt Nam.

Việc ban hành Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021 – 2030 ngay sau khi kết thúc Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 là minh chứng cho sự cố gắng không ngừng của cả hệ thống chính trị đối với công tác BĐG nói chung, BĐG trong công tác nữ CBCC nói riêng. Mục tiêu cụ thể của chiến lược là: (1) Lĩnh vực chính trị, đến năm 2025, đạt 60% và đến năm 2030, đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ; (2) Lĩnh vực kinh tế, lao động, tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030…2.

Đến tháng 4/2021, tại Hội nghị trực tuyến về “Bình đẳng giới ASEAN/EU: Thực trạng và quan điểm” dưới sự chủ trì của Giám đốc Văn phòng Nghị viện Liên minh châu Âu tại Đông Nam Á và Ủy viên Hội đồng lập pháp Brunei cùng các đại biểu gồm nghị sĩ từ Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á, Nghị viện châu Âu, Ban Thư ký AIPA, đại diện các tổ chức phi chính phủ… Thay mặt đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam, Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại bà Lê Thu Hà khẳng định, việc thúc đẩy BĐG và trao quyền cho phụ nữ là chủ trương nhất quán thực tế của Nhà nước Việt Nam, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Điểm nổi bật trong thực hiện BĐG ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về BĐG. Việt Nam xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp tạo điều kiện cho phụ nữ tiến bộ và tạo được bình đẳng, như: Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015… hay ban hành các chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020…, bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế… với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ.

Việt Nam hiện đang đứng thứ 87/153 quốc gia được khảo sát trên thế giới về thu hẹp khoảng cách giới. Việt Nam được ghi nhận đã cải thiện được chỉ số về cơ hội và sự tham gia vào các hoạt động kinh tế của nữ giới. Đặc biệt, khoảng 45% thu nhập trong nền kinh tế Việt Nam thuộc về phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam hiện đang đi làm nhiều hơn so với phần lớn các quốc gia trên thế giới, tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 28%, các vị trí quản lý cấp cao do phụ nữ Việt Nam đảm nhiệm chiếm 27%, cao hơn trung bình thế giới. Tính đến 01/01/2021, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt 26,7%, đứng thứ 72 trên thế giới và cao hơn mức trung bình của thế giới (25,5%)3.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn một số tồn tại gây cản trở trong công tác BĐG với nữ CBCC.

Thứ nhất, công tác cán bộ nữ dù có những chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn trước, nhưng nhìn chung vẫn còn khoảng cách giới khá lớn trong lĩnh vực chính trị; chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa tương xứng với tỷ lệ nữ chiếm 50% dân số cả nước.

Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu về BĐG trong lĩnh vực chính trị chưa toàn diện, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản và các giai đoạn. Vì vây, nếu Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 24/7/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra phấn đấu đến năm 2020 có 25% trở lên cán bộ nữ tham gia cấp ủy thì Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng lại đặt ra “phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ”. Câu hỏi đặt ra, đến năm 2030, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp có thể đạt 20 – 25% như Nghị quyết Trung ương 7 đã đề ra không?

Thứ ba, chưa có các chỉ tiêu về tỷ lệ nữ giới làm lãnh đạo cấp vụ và tương đương, cấp phòng và tương đương trong bộ máy nhà nước, các cơ quan của Đảng và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp. Nếu không có tỷ lệ cụ thể ở các cấp này thì sẽ khó bảo đảm được tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao hơn.

Thứ tư, thực tế Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 – 2025 và bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 vừa qua cho thấy, không ít các địa phương, đơn vị không đạt tỷ lệ nữ theo quy định. Trong khi Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, quy định việc: “Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu”. Tuy nhiên, trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu bị xử lý thế nào thì chưa quy định rõ. Bên cạnh đó, việc sử dụng những cụm từ mềm như “phấn đấu” đã làm giảm tính “bắt buộc” trong các quy định; đồng thời, khó có cơ sở để xử lý trách nhiệm. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm tính quyết tâm trong quá trình thực thi chính sách BĐG.

Thứ năm, về kinh tế, chênh lệch thu nhập giữa nam giới và nữ giới ở cùng một vị trí việc làm vẫn tồn tại, cơ hội để phủ nữ tiếp cận những công việc có thu nhập cao còn thấp hơn so với nam giới, là đối tượng dễ bị rủi ro, tổn thương hơn khi cơ quan, đơn vị có nhu cầu tinh giản biên chế, đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn ra như hiện nay.

Để bảo đảm BĐG cho nữ CBCC hiện nay, vấn đề đặt ra là cần giảm sự chênh lệch về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực giữa nữ CBCC với nam CBCC trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí và sử dụng vị trí việc làm cũng như công tác quy hoạch cán bộ nữ góp phần xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ nữ CBCC, đáp ứng yêu cầu BĐG cũng như cải cách công vụ, công chức ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, đó là:

Một là, khắc phục định kiến giới, ủng hộ vai trò của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là nam giới cần tôn trọng vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực, ngành, nghề là điều vô cùng cần thiết. Việc thay đổi định kiến về giới phải được thệ hiện bằng hành động mang tính thực tế, đó là, phải có kế hoạch phát triển nữ CBCC với chiến lược lâu dài, mang tính đột phá, đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nữ CBCC là khâu cốt lõi.

Hai là, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách quốc gia về BĐG theo các thỏa thuận quốc tế và những kế hoạch, chiến lược đã đề ra trong nước, đi kèm đó là nâng cao chất lượng giám sát thực hiện việc xây dựng các chính sách, khung pháp lý về BĐG có sát với thực tế hay không nhằm áp dụng vào thực tiễn hoạt động mang lại hiệu quả to lớn.

Ba là, bản thân mỗi nữ CBCC cần phải nỗ lực vươn lên, tự khẳng định năng lực, vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Cơ quan, đoàn thể sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện hết sức với những nữ CBCC có nhận thức đúng đắn về giá trị bản thân nhằm khẳng định vị trí, vai trò của trong tiếp cận với tri thức lãnh đạo, quản lý tiến bộ.

Bốn là, tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Cần công tâm, khách quan, chủ động rà soát, phát hiện nguồn nữ CBCC để tham mưu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị bố trí sử dụng, phát huy năng lực, sở trường của nữ CBCC để họ khẳng định bản thân và được tập thể ghi nhận.

Năm là, bổ sung ban hành quy định khuyến khích đào tạo, nâng tỷ lệ học hàm học vị trong nữ CBCC; có chính sách ưu đãi đối với nữ CBCC có trình độ chuyên môn cao; bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ nữ, trong đó, quan tâm tới nữ thanh niên, nữ dân tộc thiểu số, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa.

Chú thích:
1, 2. Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030.
3. Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
2. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2020.
3. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 2030.
4. Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ – CEDAW (năm 1979).
5. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 24/7/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
7. Luật Bình đẳng giới năm 2006.
ThS. Nguyễn Thị Thu Hương
Học viện Hành chính Quốc gia