Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong thời kỳ đổi mới

PGS.TS. Nguyễn Thị Báo
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đề ra đường lối trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để Nhà nước thể chế hoá bằng pháp luật, trong đó vấn đề trung tâm có tính bao trùm là thực hiện quyền con người. Bài biết nghiên cứu những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người được Đảng vận dụng sáng tạo trong thời kỳ đổi mới trên các phương diện.

Từ khóa: Vận dụng, phát triển sáng tạo, tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người, thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Quyền con người là vấn đề quan trọng, bao trùm nhất của thời đại ngày nay. Đây cũng là nội dung được quan tâm trong chủ trương, đường lối của Đảng và thể hiện sự nhất quán với tư tưởng Hồ Chí Minh về khát vọng giải phóng con người và mang lại hạnh phúc cho Nhân dân.

Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện phong phú, sinh động tại những thời điểm, thông qua các diễn đạt và hành động cụ thể; tuy nhiên, được thể hiện rõ ở: (1) Quyền con người, trước nhất là quyền được tự do; (2) Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết nhất để thực hiện quyền con người; (3) Quyền con người được phát triển toàn diện nhất trong chế độ xã hội chủ nghĩa; (4) Quyền con người được ghi nhận, bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật; và (5) Quyền con người được thể hiện trong mối quan hệ hữu nghị với các nước trên thế giới.

2. Khát vọng lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho Nhân dân

Khi rời quê hương, đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh mang theo hành trang lớn nhất là tình yêu thương con người và khát vọng tìm con đường cách mạng để giành quyền cho con người, xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công, tiếp nhận tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, hoàn thiện những vấn đề lý luận bao trùm nhất về quyền con người – hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Ngay từ khi mới thành lập nước, Người đã bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đã chứng minh điều đó. Trước lúc đi xa, Người vẫn nhấn mạnh mong muốn cuối cùng là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2.  

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bối cảnh đổi mới, Đảng ta khẳng định: “quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của Nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”3. Đảng chủ trương kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.

Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của Nhân dân. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân4.

3. Độc lập dân tộc – điều kiện tiên quyết nhất để thực hiện quyền con người

Từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và quyền con người, một dân tộc bị nô lệ thì người dân ở đó không thể có bất cứ quyền con người và tự do nào. Ngay những năm đầu hành trình đi tìm đường cứu nước, Người đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles (năm 1919), đòi hỏi thực thi quyền con người. Và, sau này, ý chí “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”5, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”6… của Người đã lay động mọi người Việt Nam yêu nước, nhờ đó đã thức tỉnh cả dân tộc giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược.

Thấm nhuần quan điểm đó và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện mới, Đảng ta cho rằng: quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia7. Điều này cũng là chủ trương của Hiến chương Liên hiệp quốc, bởi lẽ, không quốc gia nào kể cả Liên hiệp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”8.

4. Quyền con người được phát triển toàn diện nhất trong chế độ xã hội chủ nghĩa

Để đạt mục tiêu tự do, hạnh phúc đầy đủ, trọn vẹn cho mọi người dân Việt Nam, việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước là hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”9. Với nhận thức, “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”10, Người cho rằng, giành được độc lập dân tộc rồi thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại mà còn tạo cơ sở để hiện thực hóa quyền con người một cách toàn diện.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bối cảnh hiện nay, xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa chính là để cho nhân dân lao động có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hưởng công bằng; con người thực sự được giải phóng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có điều kiện để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Vì thế, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đời sống của Nhân dân. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ ta có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”11.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh, nhiệm vụ thể chế hoá các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề quyền con người, đã chủ trương ban hành các đạo luật cần thiết để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện12. Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với quyền công dân, khái niệm “quyền con người” lần đầu tiên được ghi nhận trong Cương lĩnh của Đảng thời kỳ đổi mới: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người”13. Thể chế hóa đường lối của Đảng, cũng là lần đầu tiên quyền con người được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp

Đại hội lần thứ XIII của Đảng chủ trương: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”14.

Trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã chủ trương từng bước xây dựng và thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm tăng nhanh tiềm lực vật chất cho việc bảo đảm quyền con người. Nhà nước chú trọng khơi dậy mọi nguồn lực xã hội vào việc phát triển kinh tế, tạo việc làm để không ngừng nâng cao sự thụ hưởng các quyền con người. Nhà nước cũng luôn quan tâm bảo đảm quyền an sinh xã hội của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.

Cùng với thúc đẩy phát triển kinh tế, Nhà nước luôn chủ trương thực hiện công bằng xã hộingay trong từng bước vàtừngchính sách phát triển, nhằm bảo đảm cuộc sống và cơ hội phát triển cho mọi thành viên xã hội. Đảng nhấn mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển là nhằm nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

5. Quyền con người cần được ghi nhận, bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật

Ngay khi cách mạng thành công, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 3/9/1945), Người đã chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ ban hành Hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của Nhân dân và đề nghị tổ chức sớm nhất cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai, gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi.

Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946, trong đó xác định: bảo đảm quyền tự do dân chủ của Nhân dân là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 đã dành Chương II nói về “Quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều quy định cụ thể các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội…

Những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền dân chủ có ý nghĩa hết sức sâu sắc: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”15. Do đó, “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”16; “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ;… từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”17… Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”18 và “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là Nhân dân làm chủ”19.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bối cảnh mới, Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã xác định trách nhiệm bảo vệ quyền công dân mà chưa đề cập khái niệm quyền con người: “Cùng với việc chăm lo đời sống Nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”20 và “… bảo đảm quyền dân chủ thật sự của Nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân”21. Đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người”22.

Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Quyền con người gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia Đảng ta cho rằng: “Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác”23.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), sau gần 50 năm xây dựng nhà nước, lần đầu tiên đưa vào Nghị quyết nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo24.

Xuất phát từ những diễn biến mới của tình hình trong nước và thế giới, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta. Đây là văn kiện đầu tiên đề cập khá đầy đủ, sâu sắc về quyền con người, đặc biệt là hệ thống các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề quyền con người. Các quan điểm này có vai trò định hướng cho hoạt động của cả hệ thống chính trị Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người suốt hơn 30 năm qua.

Như vậy, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, thể hiện được những giá trị chung mang tính phổ quát của nhà nước pháp quyền, như: đề cao pháp luật; tính tối cao của Hiến pháp; yêu cầu thượng tôn pháp luật trong hoạt động của Nhà nước và xã hội; đảm bảo nguyên tắc chủ quyền Nhân dân, vấn đề nhân quyền… và kiểm soát quyền lực – một đặc trưng quan trọng của nhà nước pháp quyền cũng được bổ sung sau này.

Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của nhà nước, trở thành định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Và ngay trong năm sau, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đề cập khá toàn diện, đầy đủ về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) xác định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”25. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

6. Quyền con người được thể hiện trong mối quan hệ hữu nghị với các nước trên thế giới

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định độc lập, chủ quyền, bình đẳng là nền tảng trong mọi quan hệ hợp tác quốc tế với phương châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”26, “thêm bạn, bớt thù” và “giúp bạn là tự giúp mình”. Người chỉ rõ: “Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước”27.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến quan hệ hòa bình, hữu nghị với các dân tộc, tăng cường giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ quyền con người. Điều này được thể hiện sống động qua di sản tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người – cả trong việc tham gia tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng hiến pháp, pháp luật cũng như quản lý xã hội; cả trong bối cảnh đất nước hòa bình cũng như khi đất nước có chiến tranh…

Những tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh về quyền con người thể hiện tầm nhìn chiến lược, phù hợp với xu thế thời đại, là đóng góp to lớn vào giá trị chung của nhân loại về quyền con người. Những tư tưởng đó là định hướng chính trị cơ bản cho toàn bộ hoạt động của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người, ở mọi giai đoạn phát triển của đất nước.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bối cảnh hiện mới, ngay từ Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) trên con đường hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở và đi vào chiều sâu, lần đầu tiên Đảng khẳng định trách nhiệm quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”28.

Trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế và giải quyết các vấn đề, quan điểm khác nhau về quyền con người, Đảng chủ trương: “Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam”29.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”30.

7. Kết luận

Khát vọng và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người được Đảng ta sự vận dụng trung thành, sáng tạo trong đường lối đổi mới và đã được hiến định trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 187.
2, 6. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 624, 627.
3, 7, 23, 24. Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực. Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”. H. NXB Chính trị – Hành chính, 2012, tr. 12, 13, 13, 13.
4, 25, 30. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 2021, tr. 116, 175 – 176, 161 – 162.
5, 16. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 713, 75.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 69. H. NXB Chính trị quốc gia, 2018, tr. 511.
9. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 563.
10. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 453.
11, 15. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 518, 90.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 1996, tr.130.
13, 22. Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. H. NXB Sự thật, 1991, tr.19, 19.
14. Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
17, 18. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 269, 434.
19, 26, 27. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 83, 256, 317.
20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, 1987, tr. 112, 117.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 134.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr. 113.